THẬP BÁT LIÊN HOÀN THI
1-SUY TƯ (suy nghĩ)
Chết phần dục niêm, sống "tư duy",
Ðem Tánh về Tâm, Tâm tự tri,
Thanh-tịnh vô-vi, Tâm tức Phật,
Ưng vô sở trụ gọi qui-y.
Qui y Phật-Tánh Ðạo tham cầu,
Cõi tục màng chi kiếp sống lâu,
Nếu biết tư duy tầm lý nhiệm,
Tự tâm thanh-tịnh đạt cơ mầu.
Mầu-vi Thiên-Ðạo, Ðạo do Tâm,
Trở lại nguồn đầu ngộ thậm-thâm,
Suy lý năng tư, tham tận lý,
Mới tường Ðạo cả chỗ thâm-trầm.
oOo

2-NIỆM (tưởng)
Hay nhơn, hay ngã, niệm liền sanh,
Chấn Pháp, chấp tu, niệm niệm hành,
Dứt niệm, chơn tâm vô quái ngại,
Năng hành, năng đạt chỗ vô danh.
Vô danh vô niệm, trí lương tri,
Niệm Phật tham cầu có ích chi?
Nếu bỏ chơn tâm, cầu Phật chứng,
Tu hoài tu hủy có ra gì.
Ra gì một kiếp chỉ tu mê,
Quên lối ra đi, mất lối về,
Vô niệm, vô sanh, tâm tự-tại,
Trở về gốc Ðạo khỏe trăm bề.
oOo

3-HÁO (ưa)
Háo danh, háo lợi, háo nhân tình,
Háo sắc, háo tài, háo tử sanh,
Chấp có muôn ngàn, tâm trói buộc,
Buông trôi tất cả, khỏe hồn linh.
Linh-Quang ngời sáng chốn không trung,
Ðại-Ðạo quy nguyên chỗ tận cùng,
Muốn sự muốn ham đều giải sạch,
Trở về nguyên bổn chốn hư không.
Hư-không vốn thật chỗ hườn sinh,
Trở lại nguyên lai tánh tự minh,
Mới biết muôn ngàn điều mến chuộng,
Phải chăng huyển ảo tự tâm mình.
oOo

4-THÂN
Có thân có khổ lẽ tự nhiên,
Tá giả tu chơn học đạo huyền,
Mượn chiếc thuyền từ qua bể khổ,
Tu thân phải học phép tham thiền.
Thiền tâm ẩn hiện tại thân trung,
Có luyện, có tu mới tận cùng,
Lý nhiệm nơi thân hằng có sẵn,
Khai thông Huyền Khiếu đắt tâm thông.
Thông ký nhiệm-mầu quí bản thân,
Ðem thân theo Ðạo rạng tinh-thần,
Say mê dục lạc thân hư hoại,
Bỏ xác hồn linh vẫn đọa trần.
oOo

5-DANH LỢI
Danh lợi vương mang một kiếp trần,
Rốt cùng chỉ thấy khổ cho thân,
Mấy ai học Ðạo quên danh lợi,
Chắc chắn ngôi Tiên chẳng mất phần.
Phần ai tu luyện hãy coi chừng,
Danh lợi chớ mang khổ tấm thân,
Danh Ðạo, danh Ðời đều trói buộc,
Lợi Ðời, lợi Ðạo, hại tinh thần.
Tinh thần sáng suốt chẳng si mê,
Giải thoát muôn duyên, nhẹ bước về,
Vô kỷ, vô công vô sắc tướng,
Vương mang trọng trược khó hồi quê.
oOo

6-SẮC
Kim cổ truyền sắc hại nhân,
Tại mình đắm sắc chẳng toàn thân,
Muốn ra khỏi chốn mê trồn trận,
Phải học phép tiên luyện Khí Thần.
Thần Khí Tinh là ba báu linh,
Bảo toàn phép báu độ thân mình,
Trược tinh biết chuyển thành linh dược,
Nhớ Khí thông lên chốn thượng đình.
Thượng đình có cửa mở lên trời,
Nghịch chuyển phải nhờ ba tấc hơi,
Giải trược lâu ngày tinh hóa khí,
Tinh đầy khí đủ thoát tình đời.
oOo

7-SỰ (việc)
Sanh sự, sự sanh ấy lẽ thường,
Không cầu, sự đến, chẳng tư lương,
Lương tri biến sự, toan hành sự,
Hành sự giúp đời thoát họa ương.
Họa ương vốn bởi tự thân mình,
Chất chứa muôn điều, tánh bất minh,
Ngộ sự không thông điều lý sự,
Tánh bung ra cảnh lại sanh tình.
Tình huống người tu có chữ "Không",
Buồn vui hận tủi dẹp theo lòng,
Gìn câu Bác ái quên hơn thiệt,
Lập hạnh từ-bi giữ đại-đồng.
oOo

8-VẬT
Muôn vật có đây vốn tự không,
Tìm không tịnh định ở nơi lòng,
Vô tâm đối cảnh không vương vấn,
Mới tỏ nhiệm mầu tánh sạch trong.
Trong không mà có lý siêu mầu,
Muôn vật có đây vốn tự đâu?
Biết rõ nguồn cơn "Không" với "Có",
Trở về "Cội Phúc" kíp đi mau.
Mau mau dứt bỏ cái tâm trần,
Muôn khổ buộc ràng bởi cái thân,
Trong vật suy ra nguồn lý Ðạo,
Tỉnh tu một kiếp khá ân-cần.
oOo

9-NGÃ (ta)
Vô ngã là phương thoát y phàm,
Bốn điều hữu ngã tự nơi tâm,
Tâm không chấp trước ly trần cấu,
Ðạo ở đâu xa phải nhọc tầm.
Tầm Ðạo nơi ta, Tánh của ta.
Coi chừng bản ngã xúi làm ma,
Ma tình, ma dục, ma phiền não
Che mất tâm linh, phá Ðạo nhà.
Nhà ta, ta biết tự tâm ta,
Thanh tịnh vô vi tánh sáng lòa,
Không chấp giả trần, không động loạn,
Mới tường tận lý Phật cùng Ma.
oOo

10-GIẢ
Học Ðạo am tường lữ giả chơn,
Trong thân có lý đạo linh đơn,
Tâm chơn mượn giả, minh chơn-lý,
Kiến tánh minh tâm dứt tủi hờn.
Tủi hờn vì chẳng biết phân minh,
Nẻo giả đường chơn cũng tự mình,
Cái giả phô bày, chơn ẩn giấu,
Tìm cho thấu đạo tận nguồn sinh.
Sinh ra trần thế phải nương đời,
Ý thức đường tu học đến nơi,
Trong giả có chơn minh lý-Ðạo
Thuyền chèo Bác-Nhã vượt dòng khơi.
oOo

11-MA
Ma, Phật, cũng trong nội tánh mình,
Huờn hư tịnh định thấy tâm linh,
Tâm sanh chủng chủng sanh ma chướng,
Tâm diệt từ nhiên sạch thất tình.
Tình huống người tu biết Phật, Ma,
Tự trong tánh ý vậy thôi mà,
Bỏ tâm theo cảnh tìm ông Phật,
Chẳng gặp Phật đâu, chỉ thấy tà.
Tà chánh phân minh rõ đạo mầu,
Ngưng thần tựu khí khó chi đâu?
Minh tâm kiến tánh là cương yếu,
Tự tiến tự tu chẳng vọng cầu.
oOo

12-CẢNH
Tâm động sanh ra cảnh giả trần,
Minh tâm nhận xét giả kề chân,
Cảnh là huyền ảo, tâm chân thật,
Phi Cảnh, phi tâm, hiệp khí thần.
Thần khí qui căn luyện tánh linh,
Bảo tồn thuốc báu ở trong mình,
Tam hoa tụ đảnh thông Huyền Khiếu,
Xuất tánh ly trần thoát tử sinh.
Sinh ra trong cảnh giả trần gian,
Tá giả tu chơn học đạo nhàn,
Liễu cảnh qui tâm gìn bổn giác,
Bổn lại diện mục tỏ linh-quang
oOo

13-THỨC
Cái tánh bổn lai vốn tịnh minh,
Ðừng lầm sáu thức biến sanh tình,
Lương tri tự biết nguồn minh-triết,
Không học mà thông ấy tánh linh.
Linh tánh chìm sâu bởi thức thần,
Thức thần nổi dậy lấp chơn thân,
Chỉnh nhờ kéo thức đem về trí,
Ðem tánh về Tâm dứt nghiệp trần.
Trần ai, ai biết tánh chân như,
Vốn của Trời cho chẳng thiếu dư,
Trí thức, dồi-dào sanh nghiệp chướng,
Qui không triệt-để kiến tâm từ.
oOo

14-QUÁ
Chủ tâm là ác, tội theo mình,
Chẳng biết lỗi lầm, tránh bất minh,
Tội quá biết rồi mau thức giác,
Tự mình rửa sạch tánh mình linh.
Mình linh nhờ biết phép tư duy,
Thức tánh hồi tâm tự nghĩ suy,
Xét lỗi ba lần trong mỗi nhựt,
Sửa sai hiển lộ trí lương tri.
Lương tri xét lỗi tận nguồn cơn,
Tự giải vô-minh dứt tủi hờn,
Lập lại quân bình trong bản thể,
Tâm lành tánh sáng có gì hơn.
oOo

15-THIỆN (lành)
Hoàng Thiên bất phụ thiện tâm nhơn,
Tự xét tánh mình phân thiệt hơn,
Thiện ác đáo đầu chung hữu báo,
Xét mình lý Ðạo, Phật tâm hườn.
Huờn hư chơn tánh, tánh an vui,
Mới biết nguồn cơn Ðạo có mùi,
Mùi Ðạo vốn là vi diệu Pháp,
Khai thông Huyền Khiếu Ðạo xong rồi.
Xong rồi một kiếp khỏe muôn năm,
Vốn của người tu, một chữ "Tâm",
Chí thiện, chí chơn, và chí mỹ,
Mới hay mùi Ðạo vốn thâm-trầm.
oOo

16-MỘNG (chiêm bao)
Ðời là mộng ảo có chi ham,
Chú trọng bản thân, lại bỏ tâm,
Cây thịt quả sai nhiều lối tục,
Quanh năm mộng mị bởi sân tham.
Tham đời nên chịu sống vô minh,
Một kiếp trăm năm chửa biết mình,
Nguồn gốc từ đâu sinh cõi thế?
Trở về cát bụi khổ hồn linh.
Hồn linh còn mộng chịu vô-minh,
Chuyển kiếp nhiều phen vẫn tử sinh,
Hành Ðạo thoát ra cơn mộng ảo,
May ra giải-thoát, đáo Thiên-Ðình.
oOo

17-QUỈ
Người tu bị quỉ dẫn mê tâm,
Tham lợi, mê danh khiến lạc lầm,
Nếu biết qui tâm và định tánh,
Diệt tà phục chánh sửa âm-thầm.
Âm-thầm tìm mối Ðạo vô-vi,
Tri giả bất ngôn, ngôn bất tri,
Tâm tánh động hoài ma quỉ bắt,
Ðạo Ðời bại hoại có ra chi.
Chi hơn học Ðạo thoát tình đời,
Phân biệt quỉ thần tánh chẳng lơi,
Ðem tánh về tâm minh chánh Ðạo,
Theo tình bỏ tánh đọa thân rồi.
oOo

18-THẦN
Thần là giàn máy ở trong mình,
Ấy thiệt sinh cơ của tánh linh,
Biết phép ngưng thần trừ vọng niệm,
Khí thần diệu hiệp đắc trường sinh.
Sinh thời thần khí bị tiêu hao,
Biết Ðạo ở đâu, vào ngõ nào?
Vào Ðạo phải nhờ "Thần" mở nẻo,
Công phu thứ lớp có đuôi đầu.
Ðầu bài tu luyện phép vô-vi,
Thần thiệt "Nguyên-Thần" Tánh tự tri,
Dứt niệm quy tâm, Thần ở lại,
Tâm hay vọng động, thần ra đi.

                                                                      Trở Lại Mục Lục