Ngọ thời, Ngày mồng 6 tháng 5 năm Nhâm Tý (1972)
  KỶ NIỆM TRẦN MINH CƠ
  Tại tư gia HỒ VĂN GIỎI (Sađéc)
  Đồng Tử: Huệ Quang
  Đọc Giả: Ngọc Ánh Hồng

Thi
BẠCH diện đến ngày phải nổi danh
HẠC mừng bay luyện chốn trời xanh
ĐỒNG chung nam nữ vui ngày hội
TỬ vẹn đạo lành tạc sử xanh

    Tiểu Thánh chào chư Thiên Mạng, chào nam nữ đàn tiền. Giờ nay Tiểu Thánh vâng lịnh giáng báo tin có Đức Giáo Chủ lai lâm, chư hiền thành tâm tiếp rước, Tiểu Thánh xuất cơ hộ đàn. Thăng

Thi
Thành đạo NGÔI cao được hưởng nhàn
Biết phân HAI nẻo ở trần gian
Thính tùng GIÁO thiện về Nguyên vị
Bất thính CHỦ nhân chịu khổ nàn

Thầy các con, Thầy mừng chư đồ đệ. Giờ lành nay trước những tấm lòng hoan lạc của các con, Thầy cũng thấy vui lây nên đôi phút tá cơ cùng các con luận ẩm. Thầy miễn lễ, các con an tọa. (Dâng bồ đào)

Thi
Toại lòng ẩm tửu các con dưng
Tề tửu nơi đây cả thảy mừng
Đạo tiến từ đây danh sáng chói
Lòng con các trẻ hãy Dương hưng
Thi
Ngoại giáo nặng màu, Nội giáo tăng
Đừng vì ngoại giáo, nội chìm ngăn
Cả Hai đều tiến Thầy vui dạ
Tiến một mà thôi rất khó khăn
Thi
Nhọc nhằn hành hóa thấu tâm trò
Mệt mỏi muôn điều nặng trí lo
Con Trưởng Hà Thanh, Thầy hỏi trẻ
Buồn chăng? Đạo sự phải chăm lo
Bạch Thầy tường! Bạch Sư Phụ:
Lãnh rồi sứ mạng phận con trò
Sinh tử chẳng nài há nhọc lo
Thi họa vận:
Mong mỏi Thầy ban đầy sức khỏe
Yên lòng mọi sự đạo chăm lo
Lành thay, lành thay!
Thi
Lời lẽ của con Sư cảm thông
Ban cho “Nhứt Tử” một ân hồng
Bồ đào nhứt trản Thầy trao trẻ
Hãy Ẩm cho vui Nhị tấm lòng!
Hà Thanh ẩm tửu rồi Thầy giải:
Nhị tấm lòng: Một của con , Một của Thầy
Thi
Thầy đã cho con lắm phước hồng
Để con dìu dẫn chúng cầu mong
Đừng lầm rồi trách Thầy hà tiện
Chút ít xăng thôi, trẻ cố công!

Bạch! Ngày trước Thầy đã dạy: Thầy là Con, Con là Thầy. Con dạn thì Thầy dạn, Con nhát thì Thầy nhát. Con đã rõ sự đồng nhứt của Bản Thể ấy. Con cố công thì dĩ nhiên thọ nhiều ân huệ của Sư Phụ. Con không tiếc công tiếc của, thì làm gì có sự “Hà tiện” của Thầy. Sở dĩ con vui miệng nói với anh em “Ông già hà tiện quá! Chỉ đổ xăng nhỏ giọt, từng lít một là ỷ mình Con Cưng ngã vào lòng nũng nịu trong vòng tay của Từ Phụ để hưởng thụ cái vuốt ve êm dịu cho mát mẻ tâm can, thoải mái đôi chút thôi và dụng ý muốn cho các con của Thầy đừng nhát gan, non lòng nhẹ dạ, hãy:

Khoan tánh khoan hoài hàm lượng đại
Ôn lương tín, thiện phước diên tăng

          Để hưởng hồng ân vô lượng như đứa con cưng vậy. Thật ra lời nói Thầy hà tiện chỉ là một phản thuyết sâu thâm có ý nghĩa ngược lại của lời trách yêu nhõng nhẽo.
Cười, cười!

Thi
Trò GIỎI! Thầy kêu để hỏi con
Cả tuần bận rộn vẫn tâm tròn
Phiền chăng? Vậy trẻ cho Thầy rõ!
Gối mỏi lưng còng phận của con

    Bạch Thầy tường!
 Bạch Sư Phụ: Vừa được tin Thầy chuyển đàn cơ đến tư gia của con, con hết sức vui mừng. Con nỗ lực sửa sang mọi mặt. Dầu cho tiêu tán xác thân già này đi nữa cũng không nài, sá chi năm bảy ngày.
Con sốt sắng vui vẻ khôn cùng.
Được có ngày hôm nay như vầy, con đủ toại nguyện lắm rồi, bạch Thầy!
Thiện tai, thiện tai!

Thi
Thầy khen trò Giỏi thưởng ly đầy
Khẩu khí của con thật rất hay
Tâm địa trẻ thơ Thầy rõ tất
Hỏi chơi cho cả , hiểu tâm này
Thi
Rót nữa cho Thầy rượu một ly
Thưởng chung các trẻ có công trì
Lo cho chu tất ngày hành lễ
Nữ phái Thầy trao cạn một ly
Thi
Đầy đủ nữa hơn, lúc Tuất thời
Thiên Quân Kiến Đức trở về nơi
Tá cơ hỷ hạ cùng thân hữu
Vẹn vẽ muôn điều dạ chớ lơi!
Thi
Lễ sanh chịu khó rót đào thêm
Thầy thưởng các con dạ chẳng mềm
Tề tựu đàn hầu nghe giáo thuyết
Vui lòng nam tử phước tăng thêm
Thi Bài
Lòng hoan hỷ chứng tri tá bút
Để đôi lời trong đục cùng trò
Đường trần tăm tối lần dò
Nương theo Ánh đuốc Thầy cho nơi trần
Hà Thanh trẻ giữ phần lèo lái
Các trẻ thơ cần phải chăm lo!
Đạo mầu phải đoạt tròn pho
Để về nguyên vị khỏi lò tử sinh
Càng nhìn thấy đao binh trần thế
Càng chán nơi dâu bể tang thương
Vô Thường hiện rõ trần dương
Luyến mê chi nữa tầm đường thoát thân
Ai nặng nghiệp tách trần chưa được
Cũng đừng quên mực thước về nguyên
Bám vào Bát Nhã siêu thuyền
Rồi sau cũng được cung Tiên phản hồi
Lòng phải vẹn một ngôi Đạo Đức
Cố trau dồi hết sức của mình
Để cho đắc Giác đắc Minh
Thoát qua tăm tối Thiên Đình dưỡng nuôi
Quá muội mê đen thui tâm tính
Khó dẫn dìu níu vịnh điển thiên
Ma Vương quấy nhiễu thường thường
Bẫy rào khó thoát khỏi đường tử sinh
Đối ngoại nhân công bình bác ái
Đối môn sinh cần phải dắt dìu
Mỗi người mỗi khác trăm chiều
Cơ duyên nhiều ít là điều chủ tâm
Vớt một kẻ lạc lầm trở lại
Phước rất to, con hãy hiểu rành
Môn sinh giúp đỡ toại thành
Phước còn to tát cao thanh hơn nhiều
Thầy đôi câu biểu tiêu gương sáng
Con suy cùng cho hãn lời Thầy
Mãn giờ từ giã nơi đây
Các con cố gắng cung mây phản hồi!

        Các con nghe sắc lịnh: Tuất thời thiết lập đàn cơ, Huệ Quang thủ cơ, Ngọc Ánh Hồng đọc giả.
Giờ Thầy cho các con xã đàn nghỉ ngơi công phu.

Ngâm
Mãn giờ từ giã các con
Điển Thiên Thầy rút Bồng non phản hồi.
Thăng

TÁI CẦU Tuất thời

Thi
MINH dồi trau đạo Đạo Pháp Thầy
Y truyền tứ buổi hiệp Rồng Mây
ĐỒNG chung đạo hữu lo tròn phận
TỬ được lai hồi khỏi chuyển xoay

     Tiểu Thánh chào chư Thiên Mạng, chào Đại Huynh cùng chư Tỷ, Muội, chào đạo hữu nam nữ đàn tiền. Giờ nay Tiểu Thánh được phép giáng báo tin, có bằng hữu Kiến Đức Thiên Quân tá bút. Chư hiền chuẩn bị tiếp cầu. Tiểu Thánh hộ đàn xuất ngoại. Thăng

Thi
Đạo Pháp QUÂN truyền chủ đắc Tâm
Luyện trau THIÊN vị hưởng cao thâm
Trọn lành ĐỨC trọng ma tà sợ
Tánh Mạng KIẾN tri Bạch Ngọc lâm

Tiểu Đệ chào Đại Sư Huynh, chào chư Thiên Mạng, chào đạo hữu nữ nam, mừng hiền muội. Giờ lành nay với lòng thành khẩn, Tiểu Thánh được phép tá cơ trước chung vui cùng chư huynh, tỷ, đệ, muội, sau có đôi lời khuyên nhủ toàn chung. Tiểu Thánh mời đàn tiền an tọa. (Dâng lễ)

Thi
Cảm đội ơn dày của Đại huynh
Mang ân tất cả đã chung tình
Tròn xong kỷ niệm ngày ly thế
Tấc dạ chạm ghi trọn nghĩa tình
Thi
Huynh Ba sắp đặt thật chu toàn
Sau trước nơi nào cũng chỉnh trang
Có cháu tận lòng lo giúp đỡ
An này Thiên vị vẫn còn mang
Thi
Đạo hữu nữ nam trước điện tiền
Niệm lòng lai đáo hưởng ân thiên
Lý chân học hiểu cơ thiên chỉ
Thiên điển thấm nhuần rõ ý thiên
Thi
Có mặt hiền thê kỷ niệm này
Khá nghe Thiên ý Đạo lành xây
Sau nhờ công quả công phu đó
Hiền muội tường chăng lý lẽ này?
Thi
Đào tửu sẵn dành đãi nữ nam
Hân hoan trong dạ Đạo lo làm
Ngày lành trở lại ngôi tiên hiệp
Thân hữu cùng nhau sẽ luận đàm
Khi được xả đàn đừng để trễ
Bồ đào hỷ hạ nhị cùng tam
Thời gian có ít nên làm vậy
Chớ có buồn phiền chư nữ nam
Thi Bài
Nói như thế đệ còn lo sợ
Sợ sư huynh nếu lỡ chấp nê
Bảo rằng đạo đệ được về
Sao mà vội quá chẳng hề vui chơi
Đệ biết trước hiện thời Thổ Địa
Đang đứng chờ ở phía bên kia
Sẽ vô tá bút Lý chia
Nhưng không thái quá chia lìa tình thâm
Đệ xin được hỏi thăm đôi tiếng
Cho phỉ lòng về viếng cựu đàn
Sư Huynh giáo đạo vững vàng
Đệ vui non thượng cung nhàn nhờ Huynh
Mệt mỏi chăng sự tình Huynh kể
Làm bốn câu hầu để lưu truyền
Tiếp luôn cho được tròn nguyên
Nối theo bài đệ, huynh hiền đừng xao
Huynh tiếp bài! Hà Thanh tiếp:
Thân tuy nhọc dầu bao chẳng nệ
Miễn cho tròn đừng để chơi vơi
Linh căn lặn hụp bể khơi
Vớt lên cho hết cứu đời vững an
Cám ơn Huynh muôn ngàn vui toại
Tiếp đến đây đối thoại Huynh Ba
Đừng than là tuổi đã già
Tiếp vào tứ cú một nhà bài thi
Huynh Ba tiếp bốn câu!
Ba Giỏi tiếp: Tuy đã già chẳng chi mệt nhọc
Miễn lo tròn bòn mót quả công
Được vầy ấy gọi là xong
Chịu nhiều gian khổ mới hòng cậy trông
Như thế đó toại lòng đệ lắm
Tiếp đến đây suy ngẫm kỹ lên
Đệ mong từ chối chớ nên
Góp vào tứ cú bia tên danh hiền
Hiền Thiên Đức chớ phiền nơi dạ
Để cho vui hỷ hạ cùng nhau
Cho tròn thượng hạ trước sau
Chớ nên từ chối, xông vào Huynh ơi!

        Thiên Đức bạch: Tôi rất dở phú thi, không thể vừa ý Tiên được, xin tha thứ.
Theo Tiểu Đệ biết thì Hiền Huynh Thiên Đức thừa sức làm song thất lục bát.
Vậy Huynh cố gắng góp vào bốn câu cho vui!
Bạch: Dầu có ráng cũng phải mất nhiều thì giờ, Tiên gia nhọc lòng chờ.
Tiểu Đệ bằng lòng chờ, có thể chờ hiền huynh 60 phút!
Bạch: Chắc không kham, vậy xin cho tôi thiếu.
Cười, cười! Hiền Huynh thiếu rồi đến lễ đệ nhị chu niên ráp vào được chăng?
Bạch: Xin vâng!
Nếu như thế thì hiền huynh gắng nhớ đuôi thi bài vừa rồi và đầu thi bài sắp đến để bốn câu của hiền huynh ráp vô cho ăn, như thế là vui lắm đó!
Hà Thanh thấy rõ chỗ dụng ý sâu xa của sự việc này nên cố gắng giúp Thiên Đức tiếp bài lúc hiện tại cho dễ dàng, vì sẵn đà tiến nếu không kham phải chờ đợt sau ở kiếp lai sanh rất khó khăn và làm sao nhớ rõ đuôi đầu là tiền căn hậu kiếp cho ăn khớp, không đứt đoạn.
Hà Thanh xen vào nói lên: Tôi giúp hộ Thiên Đức hai câu thất:

Dầu hay dở đôi lời cộng hỷ
Để thi bài chung thỉ vẹn toàn . . .

        Thiên Đức không làm tiếp hai câu lục bát, chờ lâu Hà Thanh tiếp trọn một vé.

Tiến lên học lấy Đạo vàng
Mới mong có thuở cảnh nhàn chung vui

        Hiền huynh nhờ điển ký bình Thi Bài kỹ lại.
Điển ký sửa soạn thi của đệ lại ngay đoạn này; “từ chối chớ nên” và tiếp “Góp vào tứ cú”
Chừa giấy trắng bốn hàng, tiếp Thi Bài.
Gần cuối đàn Thiên Đức dâng thi trả nợ và chép vào khoảng trống ấy

Vì Thiên Đức say mùi Đạo Đức
Mới đến đây gắng sức tu tiên
Vui ngày kỷ niệm hiện tiền
Ngày sau sẽ gặp nơi miền Phương Tây
Rất toại lòng đệ đây hỷ hạ
Kế đến đây nghĩa cả đắp bồi
Lưu Thanh huynh chớ nên thôi
Bốn câu tiếp nối xong rồi nghỉ an
Huynh Lưu Thanh tiếp bài!
Lưu Thanh xuất khẩu bốn câu:
Mừng Huynh trưởng tâm can thư thả
Đệ đến đây công quả Đạo Nhà
Cùng nhau nam nữ chung hòa
Bồ đào cộng hưởng một nhà vầy vui
Điển ký bình lại 4 câu đó. Bình!
Tạ lòng Huynh, Đạo mùi thấm thía
Đã bao lần lễ vía tới đây
Quả công vẫn biết đắp xây
Nhưng lòng đệ cũng khó khuây ơn này
Để tiếp tục lời này xin thính
Các nam hiền hãy vịnh bốn câu
Ai ai cũng được tròn câu
Ráng sao cho trọn đừng hầu bỏ qua
Chư hiền còn lại hãy viết thêm bốn câu!
Dũng Kim Quang tiếp :
Ngày kỷ niệm thật là vui vẻ
Hợp đệ huynh cặn kẽ lời khuyên
Đạo mầu trau luyện cần chuyên
Đắc thành toại hưởng nơi miền Tây Cung
Đáp lòng đệ tròn chung lý lẽ
Đệ mong thêm vẹn vẽ bốn câu
Vậy ai phải ráng chớ sầu
Đệ mong tiếp được bốn câu thi bài

           Chư hiền nam phái ráng tiếp thêm bốn câu, ai cũng được nhưng trừ Huynh Tư Trịnh Sanh Thành. Đệ mong bàn riêng với Huynh vào giờ chót. Chờ hai phút không ai tiếp, cơ gọi . . .
Hiền Năm Tỷ cố gắng xem sao!
Bốn câu của Tỷ:

Dầu lao khổ đâu nài khó nhọc
Dầu gian nan cũng dốc tiến tu
Đạo gìn bền vững muôn thu
Ngày sau sẽ vượt ám mù về quê
Vui toại thay chẳng xê ý muốn
Đáp lời mời bút xuống lời lên
Bốn câu nối tiếp chớ rên!
Chư hiền nam phái ghi tên giờ này

Điển ký nhớ viết lời của Tiểu Thánh đừng bỏ sót lời nào, dầu tản văn xen vào thi bài cũng vậy, chư hiền sẽ thấy kết quả của buổi luận đàm hôm nay. Vậy chư hiền nam phái còn ai xung phong vào bốn câu nữa hay chăng? Cơ chờ 3 phút.
Sao hiền huynh Duy Phong từ chối?
Dạ bạch: Con dở tệ về thi văn, xin lần lượt học tập sẽ hay.
Như thế hiền huynh có chịu thiếu chăng?
Dạ xin thiếu.
Như thế vào lễ đệ nhị chu niên trả được chăng, bạch tường?
Dạ được ạ! (Cả đàn cười rộ . . .)
Cười, cười! Vậy hiền huynh phải nhớ cuối thi bài vừa rồi và đầu thi bài sắp tới.
Điển ký chừa giấy trắng bốn hàng. Bình lại bốn câu vừa rồi!

Bốn câu của Duy Phong:
Ngài thương xót thi bài cạn tỏ
Con xin ghi để rõ Lý Mầu
Dám đâu chậm lục đeo sầu
Thời gian thấm thoát còn đâu nữa bòn
Tiểu đệ biết hiện còn nam phái
Lòng ước mong phúc khải thi bài
Tự nhiên tiếp nối vui say
Đừng lo đừng sợ vì ngày này vui

         Vậy chư hiền nam phái muốn tiếp thi bài cứ viết lên, đệ mong thêm được bốn câu nữa!
Hai Tụi ra tiếp bốn câu:

Cơ Đại Đạo thấm mùi giải thoát
Kỷ niệm ngày hỷ lạc toàn chơn
Vui say mùi Đạo gì hơn
Đệ huynh hòa hiệp như đờn Bá Nha!
Tấc lòng đó tạ đa ghi tạc
Đã chung vui uyên bác lời văn
Ai thêm cứ việc tiến tăng!
Còn ai buồn ngủ cứ nhằn Linh Quang.

              Vì Linh Quang Thổ Địa đã nhường giờ lại cho Tiểu Thánh nên Tiểu Thánh hãy còn rộng thì giờ. Vậy nam phái còn ai nữa chăng? Hãy tiếp thêm tứ cú! (Ai cũng lặng thinh)
Hiền huynh khác phái có nên góp vào đôi câu kỷ niệm hay chăng?
Có một đạo hữu phái Tiên thiên hầu đàn cơ được gọi ngay, nhưng từ chối viện lẽ không biết thi văn, âu cũng là một việc hay để ta suy nghĩ.

Tiếp :
Chứng lòng thành đệ ban Thiên điển
Huynh đến đây hội diện là vui
Cảm lòng đạo đức xông mùi
Hiền huynh cố gắng an vui tu hành
Còn tứ vị ẩn danh có phải?
Gắng lên đi, quý sãi nhà ta!
Bốn câu chỉ bấy nhiêu hà
Đệ chờ quý vị dần dà hay sao?

           Vậy chư hiền huynh ai đó hãy cố gắng xông vào để kỷ niệm ngày vui. (Chờ bốn phút im lặng)
Hiền huynh Năm Đắc còn chần chờ gì mà chẳng ra tay?

Bốn câu của Năm Đắc :
Lễ kỷ niệm trong màu Đạo Đức
Rồi phút đây kẻ tục người tiên
Xa nhau nhưng vẫn triền miên
Tấm lòng vẫn mãi đoàn viên một nhà
- Tạ lòng huynh ái tha vô lượng
Đáp lời mời nhân nhượng đôi câu
Còn ai chớ nệ dãi dầu
Thêm cho tứ cú đuôi đầu cho xong

          (Đến đây Thiên Đức ra đọc thi để trả nợ thiếu vừa rồi)
Lành thay, lành thay! Đệ rất mừng vì hiền huynh đáp thi thật sớm.

Đệ chờ Huynh Bảy!
Bốn câu của Bảy Nay:
Đến giờ chót đệ mong phúc đáp
Đã đến đây phù hạp nghĩa tình
Kỷ niệm tốt đẹp hòa minh
Ngày sau về đến Thiên Đình đồng ngôi
Chứng lòng thành vì tôi đáp lễ
Cảm thạnh tình tâm để ân kia
Tiếp thêm chớ để đêm khuya
Bốn câu cố gắng chớ lìa ý Chơn

           Vậy còn nam phái hãy nối tiếp thi bài. Hiền còn lại hãy tiếp thi bài
Hà Thanh nhắc: Còn Ngọc Ánh Hồng hãy nhào vô . . .
Ánh Hồng bạch: Đến con hay sao?
- Sao lại không phải? Mau tiếp thi bài!
Bạch: Con hậu sinh không dám ngang hàng với Tiền Bối.
GHI CHÚ: Ánh Hồng mê tiểu thuyết Chưởng nên quen miệng dùng danh từ Tiền Bối.
Hiền bảo ta là Tiền Bối hay Đại Sư Huynh ta, chư hiền huynh ta? Bạch tường!
Bạch: Con coi tất cả là Tiền Bối.
Vậy hiền quên là HẬU SINH KHẢ QUÝ hay sao? Mau làm bốn câu thi bài tiếp tục. Nghe chăng?
Bốn câu của Ánh Hồng:

Con run sợ thiệt hơn khó nói
Con dại khờ thấp thỏi quá đi
Mong trên chỉ dạy điều chi
Mà con cần phải gắn ghi giữ gìn
Thấy trẻ thơ chí tình thương mến
Con ráng tu bờ bến đừng lơi
Nhiều duyên nhiều phúc trò ơi!
Góp công với Đạo thảnh thơi sau này
Sang nữ phái lời đây nhắc nhở
Cũng hôm nay muôn thuở khó tao
Đôi câu kỷ niệm ghi vào
Vậy ai tiên khởi viết vào bốn câu!

Chư hiền nữ phái hãy góp lời trong ngày kỷ niệm để không khí vui tươi .
Bùi Ngọc Anh quỳ bạch: Lúc bé thơ, Chú dạy con học chữ con rất kính mến Ông Thầy đầu tiên của đời con. Khi Chú bỏ xác về Tiên, con bùi ngùi chua xót, cảm mến đức hạnh của Chú, thuộc lòng những bài thơ lưu lại. Hôm nay con vui mừng tiếp thi bài.
Trò Anh nên nhớ lưu bút của Chú, trò đã đọc, trò hiểu Chú hơn ai hết. Trò hãy bình tĩnh.
Bốn câu của Ngọc Anh:

Tấm lòng thơ ân sâu ghi để
Diễm phúc này ai dễ tìm đâu
Quyết tâm dồi luyện Đạo mầu
Mong ngày xum hiệp, dãi dầu xóa tan
Cảm ơn cháu đôi hàng Chú để
Tiếp đến đây miễn lễ chớ lo!
Còn ai nữ phái lần dò
Tiếp theo tứ cú vẹn pho thi bài
Chư hiền nữ phái cố gắng tiếp thi bài.

Vân ra quỳ rồi bạch lẹ làng: Con mến Đạo, quyết tiến trên đường tu nhưng thi phú thì không làm được.
Cười, cười! Trò Vân sao từ chối? Có chịu thiếu lại hay chăng? Bạch tường!
Bạch: Dạ cho con thiếu.
Cười, cười! Như thế trò phải nhớ đuôi thi bài vừa rồi cũng như đầu bài thi sắp tới để viết cho tròn.
Bốn câu của Vân:

Nếm mùi Đạo bao nài khó nhọc
Xin Tiên Ông bảo bọc trẻ thơ
Đạo mầu tròn giữ hiện giờ
Giúp con vững chắc bến bờ lần đi
Lòng thành thật chứng tri ban bố
Hộ độ con tu bổ cội lành
Tròn xong đạo quả tuổi xanh
Thang mây trở lại ngôi lành hưởng an
Cũng Nữ phái liệu toan suy nghĩ
Tiếp thi bài chung thỉ bốn câu
Chớ than khó dễ cao sâu
Ráng thêm vé nữa khỏi sầu thêm hơn

Vậy còn lại chư nữ phái tiếp thêm bốn câu nữa rồi Tiểu Thánh khóa thi bài. (Chờ khá lâu im bặt)
Thế nào! “Hiền Muội của ta” có làm được thi bài tiếp tục hay chăng? Ta hạn chế hai câu thất cũng được!
Bạch: Xin cho muội thiếu.
Thiếu thì trả chậm nhứt là sơ nhứt nhựt lục ngoạt tức là ngày kỷ niệm đệ nhị chu niên tại Chiếu Minh Đàn. Nhứt là phải nhớ đuôi thi bài vừa rồi và đầu sắp tới. Còn hai câu kế tiếp đặc ân này, vinh dự này Tiểu đệ dành cho hiền tỷ Tư.
Em cho chị thiếu luôn, đến mùng một sẽ trả.
Như thế hiền muội cùng hiền tỷ phải gặp nhau cho thật sớm để vẹn toàn vé thi.

Cặp thất của Bà Năm Cơ:
Giọng khoan nhặt tiếng đờn giục thúc
Giải cơn sầu thoát tục tầm Tiên
Hai câu lục bát của Bà Tư Thanh:
Cậy nương Bát Nhã Siêu Thuyền
Phi đằng thiên thượng hồi nguyên cung Trời
Giờ chót đến đệ mời Huynh Tứ
Trịnh Sanh Thành Lý sự phân vân
Người ta tứ cú mỗi phần
Riêng Huynh bát cú nghĩa nhân vuông tròn
Vậy mời huynh cho đệ tám câu.
Tám câu của Trịnh Sanh Thành:
Mùi Đạo Đức sắt son ghi dạ
Đời hạ ngươn bươn bả tu hành
Chẳng vì thế cuộc cạnh tranh
Lu mờ tâm trí Ngôi lành khó trông
Phần công quả tất lòng cố gắng
Cùng công phu sốt sắng vun bồi
Sớm khuya mài miệt trau dồi
Công trình vẹn vẽ phản hồi ngôi xưa.
Cảm tạ huynh toại vừa tất cả
Chẳng trách phiền đệ quá lộng ngôn
Chung vui bất luận tổ tôn
Tròn vui kỷ niệm bảo tồn lý sâu
Chung Nam Nữ đầy câu cảm tạ
Đã hết giờ từ giã đàn chung
Bãi đàn hãy nhớ chung cùng
Bồ đào tửu ẩm vui chung ngày này
Thi
Này lễ giã từ cõi thế xưa
Nhắc lên sum hiệp với tương dưa
Nhưng lòng vui toại ngàn vàng sánh
Chúc cả Nữ Nam “ Đáo vị xưa”

Đáng lẽ Linh Quang Thổ Địa tá bút để ban truyền sắc lịnh, nhưng vì nhường giờ lại cho Tiểu Thánh nhắn hộ. Vậy chư hiền nghe sắc lịnh: Lễ đệ nhị chu niên ngày thành lập cũng như tái thiết Chiếu Minh Đàn cơ quan Vô Vi Đốn Giáo, được tổ chức tại Chiếu minh Đàn vào Sơ nhứt nhựt lục ngoạt. Các đạo hữu nên tề tựu đến đó để dự thính hầu tiếp nhận những giáo lý hữu ích cho riêng cá nhân mình. Riêng các tử đồng có tên sau đây phải có mặt trước Tuất thời để thiết lập đàn cơ:
1/ Dũng Kim Quang
2/ Ngọc Ánh Hồng
3/ Huệ Quang
Riêng bộ phận Ngọc Ẩn nghe sắc lịnh: Tuất thời thập tứ nhựt ngũ ngoạt hành hóa Tây Thành Thánh Thất thiết lập đàn cơ đúng Tuất thời để Ơn Trên dạy việc.

Ngâm
Mãn giờ từ giã chư hiền
Giã từ Sư Trưởng trần miền đệ lui
Ra đi dạ luống ngậm ngùi
Giã chung nam nữ điển lui thiên tòa.
Thăng

BÌNH LUẬN, DIỄN GIẢI:
Bạch Diện đến ngày phải nổi danh
Môn sinh của Vô Vi Đại Đạo, học và trau luyện TÂM PHÁP, gầy dựng Bát Nhã là Nội Trú , ăn ở Đạo Viện, thỉnh thoảng mới ra ngoài.
Học sinh của trường Đời, đeo đuổi cái học Trục Vật của Bách Khoa, Trí Hóa là Ngoại Trú, luôn luôn phăng mò theo cái vật lý ở ngoài TÂM. Thầy đã dạy lần đầu tiên ở Sađéc:
“Bát Nhã là Trí Hóa của con người. NÓ rất cần cho sự tiến tu”.
Chơn giá trị của con người ở nơi trình độ Trí Hóa chớ chẳng ở chỗ giàu sang nghèo hèn. Như thế Tâm là chánh yếu, Vật là phụ thuộc, như ông chủ và khí cụ. Giàu nghèo sang hèn do ngoại duyên đưa đến, biến đổi vô thường không chắc chắn, vì là cái giả hợp chẳng phải thực tại.
Chịu luật biến thiên của Càn Khôn tương đối, không có cái gì ở mãi một vị trí khi trái đất còn xoay, nền trời còn tối sáng để sanh sanh hóa hóa. Cũng chẳng có cái gì mất đi hẳn, mất đi để hóa cái khác gọi là cuộc biến thể. Phần Tướng biến mất để phần TÁNH tiến hóa với một thể tướng tương xứng hơn. Cái gì cũng có lưỡng diện: bề phải và bề trái của nó, vì còn chịu định luật nhị nguyên chưa nên Nhứt Bổn. Tâm Trí cũng vậy, khi nó cao rộng có năng lực lớn, tùy mình sử dụng như lưỡi dao bén hai bề nên đã nghe nói: ĐẠI TRÍ nếu không phải là ĐẠI HIỀN ắt là ĐẠI ÁC.
    Còn trên đường tiến hóa chưa đến mục đích, dù môn sinh ĐẠO hay học sinh ĐỜI, luôn tuyển trạch một  trong hai cái: thiện ác, phải quấy, tốt xấu, vui buồn, thương ghét v.v…
Hai sở năng ấy luôn luôn tranh thắng với nhau.
Người khôn trí giúp Giác lấn Mê, lấy Hiền chế ác, tấn Dương thối Âm để cho THIỆN GIÁC lần lượt toàn thắng kẻ nghịch mà ngự trị san hà làm Chúa Nam Quốc là Chủ Nhơn Ông của Tâm Địa.
Đồng tử bạch diện thơ sanh đã đến ngày thành tài, ra trường nên danh phận.
“Hạc mừng bay luyện chốn trời xanh”
Chim đã sổ lồng, đủ lông đủ cánh mặc tình bay luyện nhẹ nhàng trên không, tự do lui tới không gì cản ngăn, cầm cọng như cá chậu chim lồng, chịu hạn lượng, thế trần đeo đẳng.

Lưu thủy, nhân tình bạc
Phù vân, thế sự không
Riêng tiêu dao nước NHƯỢC non BỒNG
Ngàn hoa cỏ, non sông treo bức họa (thiên nhiên)
Nguyệt minh vân liễn giá
Tửu túy thạch sàn miên
Cảnh trần gian che mắt gấm hà yên
Chén rượu Thánh cuộc cờ Tiên nhàn lạc thú
Nhứt điểm thanh tâm tham vũ trụ
Bầu Linh Đơn đầy đủ no lòng
NHẸ NHÀNG trong cõi HƯ KHÔNG !!!

Như thế đã đồng nhứt với Thầy, Ánh Sáng và Nhựt Diện là MỘT.
Bài thi xưng danh, Thầy dạy môn sinh học hành lấy đó làm mục tiêu cố đạt cho kỳ được để thành công và hưởng nhàn nhưng phải phân biện hai nẻo ở trần gian, tuy hai chớ ngày kia sẽ gặp nhau MỘT CHỖ nhờ “Tuyển Giáp Trạng” đạo thơ gọi là quá quan vượt qua Giáp Tích và Ngọc Chẩm cũng là Ngọc Kinh, trần gian nói là về Kinh Đô Trường An triều bái Thánh Chúa.
Ai biết được nẻo vào Trung Dung ấy?
Người Trí: Thính tùng giáo thiện về Nguyên Vị.
Kẻ Ngu: Bất thính! Chủ nhân chịu khổ nàn, vẫn bị luân chuyển mãi mãi vòng ngoài biên khu không hề thấy đặng HUỲNH ĐẾ (Huỳnh Đình Nội). Nội Giáo, ngoại Giáo đều như hai bánh xe, hai đường rầy, như người hai chân. Nếu mất một làm sao tiến như người nhắc cò cò rất khó và đến đâu là đâu, khi thiếu một trong hai yếu tố đồng giá trị như nhau.
Người đã tự giác xong phải hướng dẫn đoàn em còn trên đường trau luyện, giúp vùa linh căn phúc tử lên đường tự tu tự giải thoát.
Riêng người lãnh đạo phải làm phận sự để trả nợ Pháp, đoàn tùy tùng cộng tác lập công để vun vén thêm cho cây Bồ Đề của mình, như nông phu rất cần săn sóc vô phân, tưới nước, che nắng cho cây mau lớn và mạnh mẽ chuẩn bị việc đơm hoa kết quả để gặt hái.
Thầy rõ sự nặng nhọc ấy nên thăm hỏi an ủi:

Nhọc nhằn Hành hóa thấu tâm trò
Mệt mỏi muôn điều nặng trí lo
Con Trưởng Hà Thanh, Thầy hỏi trẻ
Buồn chăng? Đạo sự phải chăm lo.

        Kế đến là Hồ Văn Giỏi, đệ nhị môn đồ cũng được khen tặng khuyến khích vì cũng dám liều thân già như Anh Cả rồi Thầy dạy chung môn sinh trong thi bài phải: “ Noi theo ÁNH ĐUỐC Thầy cho nơi trần”.
TÁI CẦU
Minh Y đến trước, Kiến Đức đến sau cũng đồng một Lý như đàn trước.
Lấy hai yếu tố Tâm Tánh để luận Đạo.
        Lúc sanh tiền Bùi Sanh Châu và Trần Minh Cơ đều là môn sanh Đại Thừa, điển ký và đọc giả tại Chiếu Minh Đàn, tượng trưng cho tả chi hữu dực của MỘT Thánh Thể Quang Huy Huệ Mạng như Châu Xương, Quan Bình của Đế Quân Quan Thánh, trắng đen hai bên của mặt đỏ ở giữa bộ ba của Tâm Thể.
Ở đây Minh Y là Thổ Địa là Khảm, Hai Âm Một Dương, sáng ít,
nói là Đồng Tử vì công phu non nớt, sớm lìa trần.
     Kiến Đức là Linh Quang là Ly, hai Dương một Âm nói là Thiên Quân, sáng nhiều, công phu dày hơn, nhiều năm ở thế.
Minh Y tới trước rồi xuất cơ hộ đàn để Kiến Đức đến sau, soi rọi dạy dỗ, cũng là Thổ Địa làm nền tảng cho Linh Quang hoạt động.
     Bạn đã biết Lý Minh Kiến của Tâm Tánh, nhờ tiểu âm dương (hai em) xoay vần sanh hóa như máy phát điện, lâu ngày thành khối điện năng ngưng tụ đông đặc (condeser) hóa Điển Quang (radium), huệ tâm phát,trực giác khai,
tượng trưng bởi Hà Thanh Huynh Trưởng, ngôi giữa Chánh Đẳng Chánh Giác (Quan Thánh).
Trước tiên chào mừng hai Anh là Nhứt, nhị môn đồ của Sư Phụ và chư Đạo hữu, nhưng không đãi rượu liền và hẹn sau đàn (rốt cuộc) vì ngày giờ ít để luận đàm.
Chư nam nữ chớ phiền (khi thấy khô khan, chưa đem lại kết quả).

Nói như thế đệ còn lo sợ
Sợ Sư Huynh nếu lỡ chấp nê
Bảo rằng đạo đệ được về
Sao mà vội quá chẳng hề vui chơi
Đệ biết trước hiện thời Thổ Địa
Đang đứng chờ ở phía bên kia
Sẽ vô tá bút Lý chia (âm dương)

Nhưng không thái quá chia lìa tình thâm…
Tâm như quả địa cầu, nửa bên này sáng thì nửa bên kia tối, đang chực chờ tới phiên mình thay thế xen vào thâm nhập (bút) do cái cơ tuần hườn thì tình thâm của chúng ta (tiên tục) bị chia lìa vì âm u đến, đâu còn vui vẻ nữa. Vô Minh dấy lên làm chủ thì hòa hóa xung, thương sanh ghét vì hết giác đến mê, thái bình sanh loạn lạc, cấu xé chia rẽ nhau v.v . . .
Đệ sợ Huynh là cái hằng giác của mê, sáng hoài không tối, quở em sao vội lui, mất điển lẹ làng, không ở lại cho dài lâu, để cho Địa xía phần.
Thổ Địa là tôi tớ nếu mình là Đại Thánh (Thiên Quân) thế nào thái quá như vậy được.
Nói khiêm cho môn sinh biết Tâm Pháp chớ rốt cuộc một mình Kiến Đức hoạt động rất dài lâu, choán phần giờ trọn vẹn, Thổ Địa phải nhường giờ luôn, mặc tình hỷ hạ.
Thăm hỏi Hai Anh Lãnh Đạo trước, để làm gương Hy Sinh cho đoàn em xung phong vào việc làm thi bài là gầy dựng Bát Nhã Trí Huệ hầu thắng vô minh.
Đủ sức thì gia nhập hiện tiền, yếu ớt tinh thần thì thiếu chịu lại và hứa chắc chắn không để trễ ngày nhứt định là Đại Lễ đệ nhị chu niên. Bằng không, phải trễ chuyến đò rồi mất hẳn tên tuổi (Đạo tánh) và dụng ý muốn cho tất cả tề tựu đông đầy nơi nguồn gốc Tâm Pháp Bí Truyền, chung một Đại Thuyền Bát Nhã là một thi bài chiếm kỷ lục với 172 câu.
Như thế có thể tưởng tượng rằng ngày sau chỉ có Chiếu Minh Đàn là Đạo Viện sản xuất nhiều phần tử Đại Thừa của Vô Vi Tâm Pháp hơn hết. Dụng ý quá sâu thâm, nên phân tích sự việc để lĩnh hội thêm. Những người hiện đàn, lớn nhỏ nam nữ đều cố gắng hết mình để gia nhập vào việc gầy dựng Bát Nhã là trau luyện Chơn Tánh. Nếu không kham thì xin hẹn lại chớ không bỏ qua, chỉ có ba người khác duyên mà thôi. Dở tệ là Bà Cơ và bà Tư Thanh và dại khờ hơn hết là thiếu nữ Vân mà cũng gắng trả nợ ấy. Riêng bà Tư Thanh tu luyện vững vàng trên 38 năm nhiều công quả trong Chiếu Minh Đàn từ khi khai mở đến nay và Minh Cơ đã thọ ơn dày khi còn tại thế, nên hết lòng kính mến khi gọi đến: “Còn hai câu kế tiếp, đặc ân này, vinh dự này, Tiểu đệ dành cho Hiền Tỷ Tư ...”
Vạch ra kỹ lưỡng tìm hiểu ý kín của thi bài để lường căn mỗi cá nhân do sự việc đã xảy ra.
Bạn Thiên Đức được gọi vào thứ ba, kế Hồ Văn Giỏi vì là đồng bực “Thế Thiên” là một Thủ Lãnh Chưởng Quản một phái phổ độ, nặng nề ngoại giáo, ít quan tâm đến nội Đạo, cửa lòng đã đóng chặt, không có một kẽ hở cho Ánh Sáng rọi vào.
Đã bao lần Bề Trên nhắc nhở nhưng chỉ là gió thổi trong sa mạc. Xem kỹ từng lời sẽ thấy rõ, nhìn vào Pháp Danh Thiên Đức, thấy danh xưng Thiên Quân Kiến Đức, hiểu được chỗ đồng một Thiên Tánh, đều là Thiên Đức, một nguyên căn như nhau, nhưng nay kẻ Tiên người Tục, Vô Hữu phân chia. Kẻ đã nên Vô Vi, người còn nặng mang hữu tướng, nên Thiên Tánh tiếc thương, cố gắng dìu nhơn tình, phải nhiều câu khuyên nhủ mời mọc hơn người khác.

Tiếp đến đây, suy gẫm kỹ lên
Đệ mong! Từ chối chớ nên
Góp vào tứ cú kia tên danh hiền
Hiền Thiên Đức chớ phiền nơi dạ
Để cho vui hỷ hạ cùng nhau
Cho tròn thượng hạ trước sau
“Chớ nên từ chối” xông vào Huynh ơi!

Bảo phải suy gẫm kỹ lên, Đệ rất mong mỏi, Huynh hãy mạnh dạn xông vào và dặn trước “ từ chối chớ nên” rốt sau còn nhấn lại “chớ nên từ chối”. Thế mà vẫn chối từ, ban đầu viện lẽ dở phú thi, bị bác. Kế đến đưa ra lẽ sợ mất thì giờ, sợ Tiên Gia “chờ đợi” Kiến Đức Thiên Quân bằng lòng chờ đợi, dẫu tới một châu kỳ 60, ám chỉ trọn đời, miễn là được đáp ứng lời kêu gọi tham gia đào tạo Trí Huệ là trau Đại Đạo hiện tiền, tiêu biểu bởi việc góp công vào Thi Bài, nhưng vẫn hẹn lại tương lai. May thay gần rốt đàn cơ (tắt máy) để đoàn em qua mặt gần hết mới gắng gượng nhập vào Đại Nhã Thuyền. Tuy nhiên cũng được lời phê “Lành thay! Đệ rất mừng vì hiền huynh đáp thi THẬT SỚM”.
Dụng ý nói khỏi khổ buồn thấy một Linh căn chẳng uổng kiếp sanh được làm người hiện hữu lúc Đại Đạo đang hoằng khai...Nên thêm lưu ý đàn nay có hai người khác phái, một không chịu tham gia làm thi. Việc ấy đành vậy không mời thêm, một người vui vẻ xông vào là Hai Tụi, làm bốn câu khá hay, có mùi Đạo nhưng rất tiếc vì thần khẩu đã ứng hiện với dụng tích Bá Nha, Tử Kỳ để nói lên ý mình. Quan hệ ở chỗ đó!
Bá Nha là nhạc sư, Tử Kỳ là bạn tri âm, chỉ biết nghe đờn chớ không đờn được, gặp nhau một lần rồi vĩnh biệt nhau. Do đó có thể ví là Chim Anh Võ biết nói tiếng người chớ không làm được việc người. Cũng đồng là chúng sinh nhưng không sao làm được việc của CHƠN NHƠN. Chẳng phải ai ai cũng có thể quan niệm và làm nổi những cái cao siêu quá sức sinh chúng là thực hành Vô Vi Tâm Pháp.
Riêng Trịnh Sanh Thành, Thiên Quân dành lại sau chót và thay vì bốn câu như mọi người, phải làm tám câu là dụng ý nói lên sự để mất thì giờ rất nhiều như cuộc chạy đua mà Thỏ để cho Rùa qua mặt quá xa, cần phải chạy nhanh “ Gấp đôi” để đến được kịp mức đã định.

                                                                  Trở Lại Mục Lục