ĐÀN LỄ TẤT NIÊN VÀ KỶ NIỆM
                                              NGÀY TỪ TRẦN CỦA BÙI HÀ ĐÔNG

                                              NAM BẮC ĐÔNG TÂY CÕI THẾ TRẦN
                                                      Ngày mùng 06 tháng 12 Tân Hợi
                                                              Thiện Minh: xuất khẩu

Thi
NAM Bắc Đông Tây cõi thế trần
CỰC lòng Phật Thánh chẳng nài thân
TIÊN Thiên Chơn Đạo ban truyền khắp
ÔNG Chủ Giáo nhơn đã lắm lần
Hựu
Lắm lần xuống thế để dìu nhơn
Trở lại cựu ngôi đáo phục hườn
Những kẻ hữu phần theo bước Đạo
Những người vô phúc khó dung thân

            Nam Cực Tiên Ông, Ngã chào chư Thiên Mạng, chư liệt vị, chào Sư Trưởng.
    Giờ nay Lão được lịnh giáng đàn báo tin có Đức Đại Từ Phụ giá lâm, chư hiền thành tâm nghinh tiếp.
Ngã hộ đàn xuất ngoại triều nghinh. Thăng

Thi
Vi Đại Đạo khó tường tri
DANH tánh Không Không khó nghĩ suy
TIÊN Phật đắc thành nhờ “Khẩu Khuyết”
TRƯỞNG thành Đạo pháp tự Tâm ghi.

        Thầy các con, Thầy mừng mỗi trẻ. Giờ lành nay nhân ngày đàn Tất Niên Thầy đôi phút lai lâm trước mừng cho mỗi trẻ đã vượt qua khó nhọc trong một đời tu học, sau có đôi lời khuyên nhủ các con. Thầy miễn lễ các con an tọa nghe Thầy. (Đãnh lễ dâng bồ đào)

Thi
Chứng lòng mỗi trẻ hiến tâm thành
Ban bố cho con những điển thanh
Mát mẻ tâm can thần trí sáng
Lo đời luyện Đạo được siêu sanh
Thi
Đã suốt một niên ngưỡng cửa này
Những điều cao thấp, dở cùng hay
Các con tùng thính và suy gẫm
Ôn cố thực hành huệ phước gây
Thi
Thầy nhìn các trẻ cố công lo
Học đạo luyện trau đáng phận trò
Công quả công phu đều vẹn vẽ
Như vầy Đạo quả chóng tròn pho
Hạ ngươn các trẻ tu như thế
Thầy thấy toại lòng điển hộ cho
Tai biến bao nhiêu Thầy cứu thoát
Để con yên ổn Đạo chăm lo
Thi Bài
Ngày Tất niên giờ lành tá bút
Để mừng con đôi phút đêm thanh
Nhủ khuyên những việc hiền lành
Chỉ cho đôi đoạn Đạo hành nội công
Các con trẻ một lòng giải thoát
Nương pháp thuyền trở gót bờ kia
Hà Thanh gìn giữ khóa chìa
Các con triệt để chẳng lìa nửa ly
Sợ khó hiểu Thầy ghi tỏ rõ
Đạo Vô Vi vạch rõ lối đường
Hà Thanh tầm đuốc tiền phương
Các con noi dấu trên đường về Nguyên
Đừng tự phụ, rồ điên lầm Đạo
Chim Đại Bàng trong hạt trứng kia
Nở ra chưa kịp trau tria
Cánh lông chưa đủ bay vìa nơi đâu?
Thầy thường bảo, cố thâu nghị lực,
Hãy tự mình dùng sức Huệ Tâm
Thắp lên ngọn đuốc sáng ngầm
Để rồi dò dẫm âm thầm Đường Đi
Nhưng rất tiếc tu trì non nớt
Đèn còn lu yếu ớt soi đường
Cố lên! Luyện tập cho thường
Hầu sau tỏ rạng soi đường mà đi
Nay hiện có Đuốc Tri sáng rỡ
Hãy theo đường tháo gỡ chông gai
Tội chi nhắm mắt đi hoài
Nương cây gậy trúc cầm tay ích gì?
Bao lời để xét suy cho thấu
Hãy luyện trau theo dấu đàn anh
Vội gì gieo rải điển thanh
Trong khi còn thiếu điển lành tâm can
Tôn Chỉ Đạo ràng ràng trước mắt
Phái Chiếu Minh quy tắc hẳn hòi
Tự tu, tự độ cố noi
Bao nhiêu đều vậy, đều soi tâm mình
Khi Tâm Minh rõ hình Tự Tánh
Trở về Nguyên đường chánh tầm phăng
Khó chi nẻo Đạo trầm thăng
Lòng người bền bỉ, vạn năng trong đời
Các con hãy ghi lời Thầy dạy
Cố học hành cả thảy tiến tu
Ngày gần thoát khỏi ám mù
An vui toại hưởng thiên mùi Bồng Lai
Thi
Bồng Lai Tiên cảnh rước Tu Chân
Giải thoát trần gian khỏi nợ nần
Bí pháp luyện trau lìa “Bảy Thể”
Trở về Nguyên vị đắc Kim Thân
Hà Thanh con có điều chi bạch Thầy rõ!

         Bạch Thượng Phụ: Hôm nay ngày lễ Tất niên, con đã mật báo với Thầy những gì con đã kiểm điểm về ưu khuyết của môn sinh và hành Đạo suốt niên qua. Trọn ngày con đã phân tích kỹ lưỡng và bình phẩm của Hai trò lỗi lạc hơn hết về phương diện hiểu biết Đạo Lý. Nhưng tiếc thay lại do đó mà sa vào cái đáng trách là tự tôn tự đại, hay khoe mình, muốn tự xưng Thầy, mong mỏi làm Tổ bất chấp Huấn Ngôn nên Thầy đã cặn kẽ dạy ngay trong Thi Bài trên đây để sửa chữa.
Riêng về gia đình của con, con rất vui mừng thấy đã khai mở một kỷ nguyên mới tốt đẹp xán lạn chưa từng có là ba trò Minh Tùng, Ngọc Anh, Nguyệt Ánh nhất loạt dâng Đại Thệ để lãnh Chân Truyền Y Pháp, lên đường tập huyền công vào đêm giao thừa Hợi Tý giao phân sắp đến.
          Đời con đã gánh chịu muôn trùng đau khổ, chẳng quản ngại gian lao, dãi dầu sương gió chỉ vì mục đích tìm Đạo, tự Giải Thoát và truyền trao lại hậu tấn noi theo giữ gìn Tông Chỉ, giúp người mến Đạo tầm tu cho trúng đường lối.
Bấy lâu con ngỡ rằng Tông Chỉ Tự Pháp truyền gia tộc của họ Bùi do Thầy ban bố, đến khi con ra đi là dứt, nào dè có ngày hôm nay. Chẳng phải con quá thiên về tình cảm gia đình, con đã chứng minh điều này với lời nói: “Con là nợ, học trò mới là con”. Tuy nhiên con vẫn mong mỏi con cháu có người nối chí con giữ gìn gia bảo vô giá ấy vì con đã mất tin tưởng ở môn nhơn ngoại tộc. Nhờ trưởng thành trong gia đình Đạo Pháp, các trẻ mới có thể giữ đúng quy tắc của phái Chiếu Minh thuần túy mà không sanh sứa vẽ vời canh cải để mong cầu danh, làm Thầy làm Tổ. Con cháu đã hấp thụ nhiều năm, rèn luyện thuần thục ý chí hạnh kiểm theo lẽ sống thường nhựt của con, không như các trò khác đã làm con thất vọng và chán nản, các trẻ là dòng máu của xác thịt, hôm nay lại là Trò Con Tinh Thần Đạo Pháp thì con đã thỏa nguyện rồi.             Đời con mong mỏi chỉ có bấy nhiêu, là được trao lại cho con cháu sự nghiệp lớn lao mà con suốt đời lo gầy dựng là Bảo Vật, là tài sản vô hình ấy mà thôi.
Ngày nay là ngày chung thân Đại Sự của các trẻ đầu xanh có nhiều nghị lực, ý chí sắt đá, tinh thần dũng mãnh, đởm lược phi thường, con trình Thầy ban cho chúng đôi lời vàng ngọc để làm kỷ niệm và nung chí hăng hái trên đường dài đầy gian khổ. Con tin chắc rằng sự việc của các trẻ đã làm cho Thầy vui cười chứng kiến và Chư Tiên vỗ tay hoan hỷ và tông tổ ầm ỉ hoan nghinh nhiệt liệt.
Lành thay! Lành thay!

Thi
Cho trẻ đôi câu để giữ gìn
Tùng theo Chơn Pháp đắc Huyền Minh
Anh thư dồi luyện tròn Chơn Đạo
Ánh sáng muônt đời mãi hiển vinh

     Thầy rất hoan hỷ khi thấy các con đã chân thành với Đạo, quyết noi đường Giải thoát để trở lại ngôi xưa, Thầy từ bi ban hồng ân cho các con bền vững lòng tu cho đến khi Thành Đạo.
Hà Thanh! Con còn điều chi trình Thầy rõ?
Bạch Thầy: Về phần các trẻ Thầy đã ban ân và chỉ dạy, còn về Đàn Tất Niên, cũng như năm rồi con mong ước có chư Tiên giáng chúc mừng, thêm phần long trọng cho đúng ý nghĩa cuộc Lễ và một đàn dành cho chơn vong Bùi Hà Đông nhân ngày kỷ niệm từ trần và luôn cả ngày xuất gia lên đường trau Đạo của con cháu. Con trình thêm: có Thiên Đức dâng lá phướng mới tạo và xin Thầy trấn thần. Đối với con, đại diện cơ       Đại Thừa, phướng ấy có giá trị như thế nào, Thầy vẫn biết con đã hiểu nhưng dù sao con cũng rõ ý Thầy vì thương thế nên phải chìu lòn mà độ thế. Nhân đó con cũng xin Thầy chấp nhận cho nguyện ước của Thiên Đức được vuông tròn.
Những điều mong ước của Hà Thanh Thầy phê nhận tất cả. Đáng lẽ ra theo sự sắp xếp của Thầy thì đến ngày Khai Cơ mới có Bát Tiên tá bút, nếu con muốn Thầy cũng nhậm ngôn. Riêng về phướng linh thì các con hãy mang tới Thiên Bàn cho Thầy trấn thần.
   (Thiên Đức đội phướng quỳ)
Đã xong. Các con hồi.
            Thầy mãn điển sắc lịnh bãi đàn 10 phút tái lập Dũng Kim Quang thủ cơ, Ngọc Ánh Hồng đọc giả.

Ngâm
Mãn giờ Thầy trở về nguyên
Long xa Thầy ngự , điển thiên thu hồi. Thăng
TÁI CẦU
Thi
Lặng Im Nín Hết cả trung đàn
Quá Uổng An Nhiều Gặp bất an
Thô Hết Hỏi Ông, Ông chẳng nói (LINH QUANG THỔ ĐỊA )
Đèn In Nặng Ánh, chiếu hào quang
Hựu
Hào quang xanh đỏ chớp lên kìa
Đố biết là ai tá bút kia
Điển ký hai bên mau kiểm điểm
Trúng thì ban thưởng
Trật thì phải chịu rượu dâng kìa

      Điển ký tự bạch: Lấy ở câu đầu 4 chữ L.I.N.H là Linh, câu kế 5 chữ Q.U.A.N.G là Quang, câu thứ 3, ba chữ I dấu T.H.Ô dấu hỏi là Thổ, câu chót 3 chữ một dấu Đ.I.A. dấu nặng là Địa, gồm danh xưng Linh Quang Thổ Địa.
Khá khen! Khá khen! Vậy Địa mời chư hiền an tọa (dâng rượu đãnh lễ)

Thi
Lễ Sanh hãy giúp Địa đôi điều
Đào tửu hiền trao hết bấy nhiêu
Điển ký ba người, người nhứt trản
Tất niên thua đậm, Địa buồn hiu
Thi
Khen tài Điển ký của đôi ban
Tìm thấy Địa danh, hiện ẩn tàng
Cả thảy ba người đều kiếm được
Bồ đào tam trản Địa đành tan

        Giờ nay Địa giáng là để báo tin có chư Tiên tá bút vì Thượng Lịnh không thể bỏ hẳn lễ Khai Cơ được nên Thầy đã chia hai Bát Tiên. Giờ nay có Tứ Tiên tá bút, khai cơ sẽ có Tứ Tiên.
Giờ nay có Hàn Tương Tử, Trương Quả Lão, Tào Quốc Cựu, Lam Thể Hòa.
Chư hiền biết lý do làm sao Hàn Tương Tử được sắp trong bốn Tiên giờ này chăng? Vì sợ đi chung với Hà Tiên Cô sẽ có chuyện lôi thôi nên mới sắp ổng đi cùng Tứ Tiên vào kỳ này !!!
Đôi điều báo tin Địa sắp mãn, Địa nhắn lời nhờ đọc giả thưa lại dùm khi Hàn Tương tử tá cơ, nói cùng ông chừa cho Địa nhứt trản bồ đào vì bồ đào của Địa đã thua hết rồi.
Địa giã từ chung . Chư hiền tiếp cầu.
GHI CHÚ: Để ý thức lời lẽ tuy đơn sơ, khôi hài nhưng rất thâm sâu của Thổ Địa và mới thấy dụng ý tuyệt vời của sự việc diễn ra hay ho giữa Thổ Địa và Hàn Tương Tử, Tôi sẽ giải sau đàn, đây chỉ ghi chú sơ lược. Chúng ta hiểu Thổ Địa là Tâm Địa. Nhơn Tâm chịu luật tương đối, chia làm hai :
1- Phật tâm là thanh tâm bất nhiễm, tượng trưng cho GIÁC.
2- Phàm tâm, tâm ma là nhiễm trược tâm, tượng trưng cho MÊ. Mượn lời để bày Lý.
Thổ Địa giáng bút là Tâm hạ trần, nhiễm thế, đem Tiên Tửu là bảo vật ra đùa vui, cá cuộc bị thua sạch trơn ba ly là Tam Bửu như kẻ điếm đàng cờ bạc trút sạch túi tiền, hết dương còn âm, Linh Quang đã mất, vô minh tràn ngập. Bây giờ báo tin Tiên sắp đến là cực tối sanh sáng, Đông tàn Xuân sang. Tất niên chỉ vào chung quy khai cơ mượn nói Nguyên Thỉ .
Bát Tiên chia đôi: Phân nửa giáng bây giờ, ngày Tất niên, tượng trưng cho rốt sau, phân nửa sẽ giáng bút ngày khai cơ, tượng trưng cho khởi đầu. Rốt trở lại đầu gặp nhau “giữa” chỗ giáp mối Hợi Tý...
Địa đã cạn túi, nhờ đọc giả xin với Hàn Tương Tử là Tiên nhiễm tục dành lại cho ta một ly bồ đào vì nhờ không đi chung với Hà Tiên Cô nên vẫn giữ được ít nhiều Bảo Vật tinh thần, chớ nếu mê thế, say sưa mùi tục lụy rồi:

Trút cạn nguồn tình vui một bữa
Còn hơn dành để hiến Cao Đài (Tâm Địa)

       Mà phải khô bầu rồi Địa cũng quớt mỏ luôn. Do đó HÀN TƯƠNG TỬ sần sượng,
nổi cáu như đã diễn tả theo lời thi của Hàn Tương Tử.
Dụng ý nhắm vào học đồ trẻ tuổi, còn non tay ấn phải phòng ngừa đừng ỷ lại, tưởng mình đã vững chắc, là Tiên chánh hiệu, vừa bị chạm tự ái là đã nổi sân, đến chừng cọ sát thực tế mới rõ nhiễm hay bất nhiễm như đã diễn giải đàn tất niên năm qua…
Ra đi hạ trần, làm hư mất Tam Bửu, khi về nhờ Ba Tiên Trưởng (Ngươn Thần,
Ngươn Khí, Ngươn Tinh) ban cho Ba Ly đầy đủ Tam Bửu mới mong trở về Nguồn Cội …

Thi (I)
Đông tàn HÀN tiết phủ trần gian
Giá lạnh TƯƠNG dưa khó liệu toan ( HÀN TƯƠNG TỬ )
Nghĩ thấy TỬ đồ còn mới mới
Sợ không vui miệng phải than van

GHI CHÚ: Ý thi rất tế nhị “Hàn Tương Tử vui miệng” nói ra cho môn đồ còn mới, chưa luyện đủ sức ấm của Chơn Dương, lúc này đông tàn tuyết lạnh bao phủ, đợi cho kẻ chay miệng (tương dưa) và chay lòng (tuyệt dục) phải than van, không thỏa mãn thèm thuồng, cảm thấy thiếu thốn vừa tâm vừa khẩu, đã tự hạn chế ép mình lại gặp cảnh thiếu nệm ấm chăn bông, không lửa sưởi lòng, cô đơn quạnh quẽ, khó liệu toan, khó vững vàng e phải lung lay sanh tà niệm.
Hàn Tương Tử chào chư Thiên mạng, chào Đại Sư, chào nam nữ trung đàn. Giờ nay được lịnh tá cơ, Tương Tử có đôi lời cùng chư hiền Nam Nữ. Tương Tử mời chư hiền an tọa. (Dâng lễ, hiến tửu)

Thi
Tất Niên đoàn tụ thấy lòng mừng
Nỗ lực chư hiền thính lịnh vưng
Học Đạo công phu hành quả Thiện
Của, công xây đắp vẻ trùng hưng
Thi
Tròn niên kiểm điểm khuyết cùng ưu
Khuyết ít ưu nhiều, rõ kế mưu (trí tuệ)
Mỗi mỗi lập tâm lo Đạo Đức
Viên thành, quả thật lắm điều ưu
Thi
Dự tính các hiền rất đẹp xinh
Hết tâm vì Đạo, đoạt quang vinh
Bạc vàng thế tục, dùng cho Đạo
Còn mãi muôn đời phúc đức minh
Thi
Các hiền chớ vội trách hờn ta
Thổ Địa Linh Quang thật quá đa
Nói xấu không kiên chi bực Thánh
Chừng về sẽ biết chuyện gần xa

      GHI CHÚ: Chớ vội trách ta là Tiên sao còn đối xử bất nhã, tại Thổ Địa quá xá kia mà, dám nói xấu ta, khi về trển Thổ Địa sẽ biết chẳng kiên nể bực Thánh à!
Đọc giả bạch: Khi nãy Linh Quang có gởi lời lại xin Tiên Ông để dành cho Ông một ly Bồ đào tửu vì của riêng đã thua hết nên khô môi, thèm quá!

Thi
Cười cho Thổ Địa trớ trêu thay
Chọc giận rồi còn lại muốn say
Phải Ông khen mình nhiều điểm tốt
Bồ đào ai tiếc chẳng trao ngay
Thêu thùa đủ chuyện, còn xin Rượu
Ta uống hết trơn, chẳng để Ngài
Mai mốt đừng còn thèo lẻo nữa
Muốn xin “khen tặng” phải là hay

         GHI CHÚ: Thật là mâu thuẫn trớ trêu làm sao! “Tâm Địa đã khiêu khích làm cho động hỏa, lửa lòng dấy lên thì Tiên tửu đâu còn mà xin, đã biến đổi thành Tửu sắc và men tình hưởng dụng hết trơn rồi. Tâm thanh tịnh, điểm tốt xuất hiện soi sáng thì Bồ đào trực tiếp phát sanh. Tâm loạn khởi lung tung (thêu thùa đủ chuyện) thì không có một giọt. Nhớ đừng sanh Tâm, tà niệm (Thèo lẻo) vậy nữa nhé! Khen ta, ta lặng lẽ mát mẻ thiện lành thì Linh Quang mới hiển lộ vui vẻ chứ.

Thi
Hơn nữa kỳ này được lịnh trên
Chư Tiên tá bút để ghi lên
Trọn niên hành giáo Trung dung Đạo
Nên mới Tứ Tiên, Giữa chọn tên
Đâu phải tại vì Hàn chọc ghẹo
Ơn trên buộc phải tách công đền
Là Tiên đâu phải như phàm tục
Thổ Địa khéo bày, phá bực trên

         CHÚ THÍCH: Hơn thế nữa, Chư Tiên hạ trần để dạy dỗ cho biết trọn niên, một chu niên kỳ, cái vòng tròn chung thỉ gặp nhau ở một điểm do nhứt trung tâm trụ cốt điều khiển, chi phối. Điểm trung dung ấy là Đạo, là Ngôi tuyệt đối tối cao tên gọi là Chúa, là Tiên, là Phật v.v…Đâu phải nguyên nhân Hàn Tương Tử này chọc ghẹo Hà Tiên Cô, âm dương đối đãi mà bị bắt buộc tách rời Công- đền, lìa nơi trung tâm bất biến, Bình đẳng như như.
Là Tiên đâu phải như phàm tục mà động biến, chỉ tại Tâm sanh. Thổ Địa phát động ra chuyện, phá Ngôi Cao, biến hóa và tuột xuống nơi thấp theo lý tự nhiên, âm Thổ thố loạn sanh Thủy, là Hơi sanh Nước của trạng thái mây mưa, Thánh trở nên phàm, vô vi hóa hữu tướng nên nói siêu đọa đều do Tâm Thổ v.v…
Hàn Tương Tử sắp mãn giờ, chư hiền tiếp cầu Trương Lão Quả. Từ giã chung nam nữ. Thăng.

Thi (2)
TRƯƠNG buồm xông lướt đến Trời Nam
Rước kẻ QUẢ công đã cố làm     (TRƯƠNG QUẢ LÃO GIÁNG )
Trưởng ấu LÃO niên công lẫn quả
Rước về cảnh lạc GIÁNG thăng TAM.

Ba lần thăng giáng:
Giáng: Thượng, Trung, Hạ, Tam giái
Thăng: Hạ, Trung, Thượng cũng qua Tam giái
         Trương Lão Quả, Lão chào chư Thiên Mạng, chào Đại Sư, chào nam nữ.
Lão được lịnh tá cơ có đôi lời cùng chư nam nữ. Vậy Lão mời chư hiền an tọa lắng nghe: (Dâng rượu)

Thi
MỪNG thay được giáng Chiếu Minh Đàn
MỪNG thấy tất niên được chỉnh trang
MỪNG những lòng tu đang phát khởi
MỪNG chung nam Nữ được ân ban.
Thi
Chư hiền cũng thấy quả nhân thành
Học Đạo, hành tròn được Điển thanh
Gia đạo ngày ngày vui toại mãi
Là nhờ Tâm Đạo điển bao quanh
Thi
Ích lợi biết bao Đạo Đức này
Cố lần học hiểu dạ đừng khuây
Dù bao công việc đời đeo đẳng
Cũng phải mót bòn để tạo xây
Sanh tử thời nay ai biết được
Bạc tiền của cải vật đà gây
Rủi khi nhắm mắt đành buông bỏ
Hãy ráng nghĩ suy , đến nỗi này!
Thi
Ít nhiều cũng phải mót bòn đi
Phúc đức ngày sau hưởng chẳng di
Chơn Đạo mục tiêu làm chủ đích
Trau dồi thành tựu thoát tai nguy
Thi
Đào tửu nhứt chung Lão để dành
Cho Ông Thổ Địa có tâm thành
Báo đàn tá bút chư Tiên giáng
Để gọi đáp đền chút Điển thanh

Lão mãn giờ, chư hiền tiếp cầu Tào Quốc Cựu. Lão từ giã chung đàn nội.

Thi (3)
Được lịnh tá cơ Giáng tất niên
Mừng chung CỰU hiệp lúc sanh tiền
Cùng chung QUỐC thổ lo gầy dựng
TÀO nhắc vẩn vơ những bạn hiền

Tào Quốc Cựu, Ngã chào chư Thiên mạng, chào Sư Trưởng, chào Nam Nữ đàn trung.
Ngã mời chư hiền an tọa. (Dâng rượu)

Thi
VUI vầy hiệp mặt các hiền nhân
VUI thấy đàn tiền phục “Cựu chân”
VUI nhận lòng thành chư liệt vị
VUI lai đàn nội tất niên cần
Thi
Phước lành bố rải khắp đàn trung
Vạn phúc nghìn may đượm khắp cùng
Yếu tố tạo thành nền Chánh Giáo
Các hiền “kiên quyết” Trí Tây chung.
Thi
Mạt thế gặp Thầy lắm phước may
Cố lên Nam Nữ gắng công mài!
Rồi sau sẽ hưởng công mình tạo
Công quả, công phu, chẳng nói sai
Thi
Ngã cũng nhứt chung rượu để dành
Cho Ngài Thổ Địa lúc thâu canh
Làm ơn tá bút tin truyền trước
Chứng dạ của Tào nghĩ tánh danh.

Ngã mãn giờ, chư hiền tiếp cầu Lam Thể Hòa. Ngã từ giã chung chư hiền nam nữ,
Từ giã chư Thiên Mạng, giã từ Sư Trưởng. Ngã lui. Thăng

Thi (4)
LAM kiều giăng mắc buổi hoàng hôn
THỂ chất trần gian tựu khí hồn
HÒA hiệp âm dương theo Pháp Đạo
Giáng thăng do bởi Bản Tâm khôn

           Lam Thể Hòa mừng chư Thiên ân, mừng nam nữ, mừng Sư Trưởng. Giờ nay Ngã được lịnh tá cơ để cùng chư hiền đôi câu vào lễ tất niên. Ngã mời chư hiền an tọa. (Dâng rượu)
Trước tiên Ngã nhờ Lễ Sanh mang đặt lên Thiên Bàn Ba chai Đào Tửu để Ngã trấn thần rồi mang xuống ban thưởng cho mỗi hiền nhứt chung để tỏ rằng sự cố công của chư nam nữ trong niên qua được Ơn Trên bố hóa. Riêng về Sư Trưởng thời Lễ Sanh hãy rót Ba trản, cũng như ban cho hiền Thiên Đức Nhị trản. Chư hiền biết tại sao mà Bồ Đào còn phải trấn thần? Đó là để gia ban Thiên điển, những Linh căn khi ẩm vào sẽ thấy sức khỏe gia tăng, tinh thần phấn khởi. Sư Trưởng được ba trản để suốt niên vừa rồi khổ công lao
trí dạy dỗ quần sinh nay được Ơn Trên bồi đắp lại. Còn hiền Thiên Đức cố công hoàn thành bộ
Thánh Giáo cũng có công rất nhiều vào đó nay được thưởng ban. Vậy Lễ Sanh thay Ngã trao cho chư hiền.

Thi
MỪNG nay niên mãn Đạo huy hoàng
MỪNG lắm tâm nhân được vững vàng
MỪNG tiến đường tu hoan hỷ cộng
MỪNG tròn Đạo Đức được ân ban
VUI trong nhà Đạo trên cùng dưới
VUI cảnh thuận hòa thảy vẻ vang
VUI thấy ngày mai nhiều vững chắc
VUI Vô Vi Đạo tuổi muôn ngàn.

Các hiền nên hiểu “tuổi” mà Ngã nói đây có nghĩa là tuổi tác.

Thi
Đào tửu nhứt chung của Ngã đây
Để dành Thổ Địa nhứt chung này
Đền ơn của Lão không nài khó
Giáng điển báo tin tá bút đây.

          Ngã mãn giờ, sắc lịnh bãi đàn 20 phút. Tái lập Dũng Kim Quang thủ cơ, ngọc Ánh Hồng đọc giả. Ngã từ giã chung đàn nội.

Ngâm
Mãn giờ Tiên trở về Nguyên
Tứ Tiên chung hợp đàn tiền chào thăng.
TÁI CẦU
Thi
MINH trí dồi trau Bí Pháp truyền
Y theo lời giáo trở về Tiên
ĐỒNG chung một chí lo dồi luyện
TỬ đắc vị phần hưởng phước thiên.

          Tiểu Thánh chào chư liệt vị, chào nam nữ chư hiền, Tiểu Đệ mừng Trưởng Huynh, mừng Đại Tỷ, Thúc Phụ mừng chung các cháu. Giờ nay nhân một chuyến đi mà hai việc: Một là đắc lịnh Thầy giáng đàn làm Giám Khảo tất niên. Hai là bảo vệ Huynh Năm tá bút. Vậy đàn tiền an tọa.

Thi
Tất niên được lịnh giáng trung đàn
Giám khảo thay Thầy dọn Đạo ban
Năm trọn vừa qua bao học hiểu
Nhớ ghi ôn lại ráng chu toàn!
Thi
Tại sao phải luyện Đạo Vô Vi?
Mới thoát trần gian, ráng nghĩ suy!
Nhiều Đạo nhiều tông ta hiện thấy
Cũng tu, cũng niệm chẳng hoàn quy?

         Hoàn có nghĩa là hườn, quy có nghĩa là về. Câu này Tiểu Thánh dành cho các chư hiền trên 40 tuổi, nhưng Tiểu Thánh nói rõ là không đố Trưởng Huynh.
Vậy trong các hiền hãy chọn ra một vị để đáp câu này.
Chọn Thượng Lưu Thanh
Bạch: Vô Vi là nguồn cội của vũ trụ càn khôn, muôn loài vạn vật.
VÔ là không
VI là làm.
Cái KHÔNG ấy mầu nhiệm vô cùng. Nói là không làm, thật ra không có cái gì là không làm, tất cả đều do CHƠN KHÔNG ấy làm ra. nói rằng không có, chớ đúng ra tất cả cái Có đều do đó mà ra.
Người trên 40 tuổi đã qua giai đoạn “thành” đang trú trước trên đường hoành ngọa, mút giai đoạn của “Trụ” và sắp bước qua giai đoạn “Hoại” rồi “Không”. Con người ở lứa tuổi này nhận thấy mình đang bị xiềng xích chặt chẽ, bị kẹt nặng nề trong vòng Giả Hữu trần gian phải ráng nghĩ suy, cố tìm phương giải thoát diệt khổ nương Chơn Truyền Vô Vi Đạo Pháp, trau luyện Tánh Tâm, Vô Vi Hóa tất cả để trở về Chơn Không Bản Thể. Tông Nguyên là Duy Nhứt.
Vì chấp theo hình thức giả hữu là “ngoại đạo tông” mới thấy có nhiều đạo, nhiều tông nên tuy có tu có niệm mà còn lưu lãng nơi Vạn Thù làm sao biết đặng đường vào Trung Dung thế nào là hoàn quy Nhứt Bổn.
Đó là tại sao phải luyện Đạo Vô Vi, vì chẳng có cách nào khác hơn để giúp con Lạc Đà chui qua lỗ kim mà vào nước Thiên Đàng lạc cảnh đặng.
Nhưng chẳng phải ai ai cũng gặp, ai ai cũng có thể và thích tu theo Vô Vi Đạo.
Hiền Lưu Thanh bạch tường tạm đúng, vậy hiền hãy an tọa rồi chút nữa Tiểu Thánh sẽ phân tường.

Thi
Cõi đời đau khổ biết bao nhiêu
Muốn thoát nhìn xem thấy một chiều
“Cửa Đạo” tu hành thời Giải thoát
“ Đường đời” buộc trói khổ trăm chiều
Khổ đau thời sợ, không hề chịu
Tu niệm giam thân, lại một điều
Sợ khổ, sợ buồn, Hai thứ đó
Bên nào chấp nhận, bên nào tiêu?

Câu đố này Tiểu Thánh dành riêng cho các hiền trẻ tuổi dưới 40. Vậy các trò hãy chọn một đại diện nói lên.
(Chúng con chọn Huệ Minh Đức là môn đồ đại thừa đáp.)
Đức bạch: Đứng trên lập trường Nhị Nguyên Đời- Đạo phân chia làm Hai lẽ: Vui , khổ.
Lục Tổ đã nói: Thấy làm hai, làm nhiều là Ngu. Thấy một chiều là Trí.
Rõ đời là đau khổ, biết đạo là phương giải thoát thì phải chấp nhận cái khổ của nghiệp trần để nẩy sanh “duyên giác” là nương nhờ phương tiện để đạt cứu cánh.
Không sợ cái khổ đau, không buồn cái hãm thân vào đường tu chật hẹp hạn chế mọi vui đời.
    Chẳng lấy bên nào, chẳng bỏ tiêu bên nào. Chấp nhận cả hai thành một khối Nhân Duyên bất phân mới sanh sản mầm móng Nhứt Chơn Thường Lạc.
Nỗ lực ra công sẽ cậy trông hồi gặt quả.
Riêng các trò trẻ tuổi có cùng một ý niệm như Huệ Minh Đức hay không bạch tường.
Chi! Con nghĩ thế nào?
           Kính trình Thúc Phụ: Mỗi người có một duyên, chẳng cùng chung một nấc thang tiến hóa.
Con còn thấp thỏi, đang đứng tại ngã ba đường, chàng hảng hai chân giữa ranh Phàm Thánh.
           Ý niệm của con làm sao hiểu cho rốt ráo cái phàm nhân của con mới mong đắc cái Nhân Thánh ở mai hậu.Con phải tri để rồi hành.
Con chưa hoàn toàn có đủ hai chân bên đất trong sạch nhưng cũng chưa lún sâu vào nơi ô trược.
Con đã biết: Đời là trầm luân khổ hải, tuy chưa lên đường giải thoát mà vẫn cố lo rút chân, đem thân ra khỏi chỗ âm u ướt át, chớ còn đang trên vũng sình mà nói đến Hành Đạo thì càng vùng vằng xuẩn động chừng nào thì càng lún sâu xuống chừng nấy và phải sa lầy hết phương thoát khỏi. Con lo trau sửa để chờ ngày thuận tiện cho hạp thời cơ. Thưa Chú!
Riêng về Hùng, con có cùng một ý như em con chăng?
Kính thưa Chú: Con đồng ý với Huệ Minh Đức ở chỗ vạn vật đồng nguyên, Nhứt Thể không thể rời Bản Mạt được, chia ly Thể Dụng là mất Lẽ Sống trường tồn.
Như Chú đã dạy:

Sanh ra trong cõi hồng trần
Ít nhiều duyên nghiệp, căn phần hiệp chung
Mấy ai mãi mãi phước trùng
Mấy ai vướng họa lao lung cả đời.

Thạnh suy, bĩ thới, phước họa, vui buồn … Đã là lưỡng biên của Nhứt trung, là bề phải bề trái của một vóc.
Hiệp nhứt Nhân Duyên, phá tan mâu thuẫn để sanh hóa cái “tốt đẹp hơn” và theo định luật hiệp tan, tan hiệp, tạo mâu thuẫn, phá mâu thuẫn để tiến hóa theo lý tuần hoàn của cơ Đạo để thoát vòng vui khổ tương đối, về nơi toàn chân không vui, chẳng khổ, không chết sống, cái Thực Tại vô cùng.
Phải chấp nhận cả hai, không lấy, không bỏ. Lìa mê theo giác, bội giác hiệp mê đều không phải Chánh Pháp và sa vào ngoại biên.
Biết đặng nơi xuất phát, phải tìm cách quy hồi. Con cũng đồng ý với em Chi về phương diện tu sửa vì cùng chung một vị trí nhưng con không sợ khổ đời, cũng không quản ngại cái buồn tẻ khó khăn nẻo đạo.
Bản chất của con rất hoạt động song dè dặt trong tư tưởng và hành vi. Phải soi rọi kỹ càng, dò dẫm từng bước, tháo gỡ chông gai, khai quang đường lối giúp mở tầm mắt, trông rộng thấy xa, tuy chậm mà chắc vì hiểu rõ giá trị chính xác của Lẽ:

Dục tốc bất đạt Tấn dị thối nan
Khả đãi hành tàng Miễn ưu lao lực!

Hoan hỷ! Hoan hỷ! Qua những lời bạch trình của các trẻ, Thúc Phụ cho các con hiểu thêm: Tu là một điều dễ nhưng phải là kẻ có căn duyên mới tu được trọn vẹn,
còn với những người căn duyên mỏng cạn thì hãy coi sự tu hành như chiếc bông,
như gối dựa, có thể nghỉ ngơi vào những lúc khổ đau điêu đứng.
Do đó Ơn Trên không cấm cản vì đó cũng là một thời gian các con “gieo hạt giống”.
Các con biết nhận thấy Đạo là một phần an ủi Thiêng Liêng, đó cũng là một duyên phúc lớn.

Thi
Biết đời là khổ muốn xa đời
Nẻo Đạo tiến chơn thấy tiếc ơi!
Nước mắt rưng rưng khi chứng kiến
Tại sao như thế? Giải nên lời!

            Câu đố này dành cho nữ phái, vậy các hiền chọn một người đại diện để bạch trình.
Điển ký bình lại câu thi vừa rồi.
     Hà Thanh nói lên: Khi chứng kiến ba trẻ dâng hồng thệ và làm lễ bái sư, Má Hai, Má Tư của chúng đều khóc, nữ phái rơi lệ, các trẻ ngậm ngùi, nam phái nghẹn ngào,
rưng rưng nước mắt. Tại sao vậy, hãy giãi bày tâm trạng.
Bùi Ngọc Anh đại diện ra quỳ và giải đáp
Bạch trình Thúc Phụ: Con biết trước thế nào hôm nay cũng có Thúc Phụ giáng đàn vì là ngày trọng đại của Bùi Gia, Chú vui mừng lắm, không có gì ngăn cản nổi, không có lý do nào khiến Chú không tá bút được.
Con vừa mừng vừa lo vì chắc chắn phải trả lời những câu hỏi éo le khúc chiết đầy thâm sâu mầu nhiệm mà con khó tìm cho ra đáp án đoan trang.
Vâng lời dạy, con xin giải đáp theo ngu ý: Thế thường, người con gái phải bái Từ Đường làm lễ song thân quyến thuộc chỉ có lúc “xuất giá” mà thôi.
Họ não nề bi lụy, nhưng cái khóc của họ là nàng Lệ Cơ lúc lìa nhà tranh ra đi tòng phu để rồi khi vào hoàng cung, nhập phòng hoa chúc, nếm mùi sô hoạn trên Long sàng lại hối tiếc những dòng lệ đã đổ ngày hôm qua
Giờ đây chúng con lại khác hẳn, không có nước mắt mâu thuẫn thường tình ấy. Trước Thiên Bàn trang nghiêm, trầm hương nghi ngút, hoa quả rỡ ràng, đèn màu rực sáng, tiếng máy quay phim, tiếng chuông ngân lên càng tăng thêm phút giây quan trọng.
Lặng nhìn chúng con làm lễ gia tông và nhất là chúng con nghẹn ngào không trọn lời khi bái Phụ, bái Sư, Bá Phụ con đã vui mừng cạn từng chung lễ tửu và bằng giọng thiết tha trìu mến chấp nhận lời trình thưa, cùng tiễn chúng con vững tâm lên đường trau Đạo, luyện Pháp với những huấn ngôn từ bi, đanh thép.
Trước giờ phút thiêng liêng, với sự vui mừng cao quý của nội đàn sao lại có nhiều nước mắt, sao lại mâu thuẫn như thế? Con xin trình bày và phân tách:
“Nước mắt” chẳng phải tiêu biểu riêng cho đau buồn mà luôn cả vui mừng tột độ. Là phận liễu yếu đào thơ, non lòng nhẹ dạ, chúng con không thoát khỏi thành ngữ, tuy mỉa mai mà chí lý: “khóc như con gái”.
Vâng! Con gái hay khóc, dòng lệ dễ tuông ra, chúng con đã ứa lệ, chẳng phải vì tiếc rẻ cuộc đời son trẻ đầy hứa hẹn tươi đẹp ở tương lai mà vì quá vui mừng ngày trọng đại làm lễ “xuất gia” lên đường gầy dựng Chơn Tạo Hóa, mở mang sự nghiệp thiêng liêng vinh quang rạng rỡ trước sự hoan hỷ tán thành của Bề Trên, tất cả thân nhân và bạn đạo.
Sở dĩ nam nữ hiện diện đều đổ lệ ít nhiều vì đồng chung một cảm nghĩ xem chúng con như hãy còn thơ dại hiền hòa, chưa nhuốm bụi trần, đầu xanh phận gái dám mạnh dạn dứt khoát biến chữ tù thành chữ tu, lên đường trau Đạo như chứng kiến cảnh ni cô mơn mởn đang gối quỳ xuống tóc. Thế nào đủ thần lực ngăn nước mắt không đoanh tròng, giữ miệng môi không mếu máo với tâm trạng vừa sót thương vừa vui mừng tột độ ấy.
Riêng Má Tư và Má Hai của con thì những dòng lệ mẫu tử tình thâm làm sao không cuồn cuộn chảy để đưa con cháu mình lên đài vinh quang của Chơn Hạnh Phúc nhưng chẳng đồng với những bà mẹ trần gian khi tiễn ái Nữ xuất giá vu quy đổ bao nhiêu nước mắt lưu luyến, đưa con vào vòng khổ đau cát bụi.
Con luôn ghi nhớ bao dòng lệ của Hai Bà là bao hạt kim cương vô giá tặng cho con làm hành trang hồi môn, xuất trần gia nhập Thiền Thất.
Con đã trình đáp án cho Giám Khảo phê phán, con thấy phải thêm ghi nhớ: Hôm nay Chú tiêu biểu cho Linh Hồn Đạo Pháp, phần Bác Tư hiện diện với xác thân hữu hình chứng minh “thực dụng” công cụ của Thượng Đế cho đủ hai yếu tố:
“Minh Châu” sáng rỡ làu làu, hùng vĩ uy nghiêm trên đảnh Ngự sơn
“Hà Thanh” xanh biếc trong veo, lờ đờ lặng trôi dưới dòng Hương Thủy
Gồm trọn đủ gấm vóc giang sơn, nhà xưa ngôi cũ của đạo gia tiêu biểu với tá danh: “Sông Hương Núi Ngự”
Đại hỷ! đại hỷ! Lời bạch trình con rất chí lý đã nói lên tâm trạng của người Nữ Học Đạo ngày xưa. Thúc Phụ cho phép con an tọa.
       Chư hiền nghe Tiểu Thánh điểm phê: Lời bạch trình của Thượng Lưu Thanh với câu hỏi đã đúng 80% . Về câu đố Đạo Lý mà Huệ Minh Đức đã đáp, thời đã được kết quả 82% .
Chỉ về một khía cạnh của Chi với Hùng cũng không kém phần chính xác.
Riêng về cháu Anh nói đúng toàn vẹn, hơn thế còn diễn tả lời văn rất tế nhị, thật đáng khen.
Đã mãn giờ, chư hiền tiếp cầu Chơn Linh của Bùi Hà Đông.
(Tiếp đọc bài cầu)

Thi
BÙI ngùi thương trẻ đã tầm tu
hải rộng tri, thoát ám mù
ĐÔNG tỏ vầng dương soi nẻo tiến
Giáng trần chứng lễ lắm công phu.

         Tiểu Đệ chào Đại Huynh, chào Đại Tỷ, Tôi chào chư đạo hữu nữ nam, cha mừng các con.
Tôi mời chung đàn tiền an tọa. (hiến tửu)

Thi
Trước hết cảm ân của Trưởng Huynh
Xin dời đàn lệ , vẹn thâm tình
Nếu không, cũng khó xin lai bút
Vì đã bế cơ, khó rỗi xin
Thi
Tham dự đàn nay đủ các hiền
Tôi mừng cảm tạ tấm tình riêng
Vì tôi, vì cả gia đình trẻ
Tham dự đủ xong dạ chẳng phiền
Thi
Các con cố gắng lắm công trình
Cha thật cảm lòng trẻ khắc in
Hiếu Nghĩa tròn xong con báo đáp
Tận lòng hết chí khó làm thinh
Thi
Mừng cả hai con: Anh, Ánh tròn
Chúc con vẹn giữ tấm lòng son
Hộ phù cha sẵn bên con đó
Nội Tổ phước ban bảo hộ con
Thi Bài
Ngày kỷ niệm các con thiết lễ
Tận tâm thành, hiếu để vẹn gìn
Lòng con đã giữ sắt đinh
Thuận hòa trên dưới ba nghìn toại vui
Chư đạo hữu cùng tôi chu tất
Ơn Trưởng Huynh, Đệ nguyện cất sâu
Chẳng nài khó nhọc dãi dầu
Xin Huynh chấp nhận thỉnh cầu Đệ đây
Dìu dắt giùm sau đây các trẻ
Trên đường tu chỉ vẽ lối đường
Ngày sau sum hợp Thiên Đường
Ơn Huynh, Đệ nhớ sánh dường Trời cao
Các con trẻ trước sau gìn dạ
Cả nữ nam bươn bả chăm lo
Đức âm gìn giữ tròn pho
Ngày sau được hưởng Trời cho vị phần
Đôi lời dạy ân cần ghi nhớ
Điển mãn giờ sắp trở Thiên Thai
Giã từ chung tất, chân quày
Tất niên vui hưởng một ngày đoàn viên
Ngâm
Mãn giờ từ giã đạo tâm
Giã từ Huynh Trưởng cao thâm Đệ hồi
Giã từ Đại Tỷ, chân lui
Giã từ con trẻ ngậm ngùi hồi quy.
                                 Thăng

BÌNH GIẢI
      Là một đàn cơ đặc biệt, gồm nhiều yếu tố quan trọng, cần phải sưu tầm tột lý để khám phá nhiều mầu nhiệm ẩn tàng trong Tiên Ngữ.
      Các bạn hãy cố gắng ôn cố lại kỹ lưỡng những điều đã học niên qua, hầu tri tân những gì sắp đến.
Có ưu dĩ nhiên có khuyết, có dở, có hay, có cao, có thấp, hai phương diện của nhứt sự vật.
      Tôi rất vui lòng thấy ưu nhiều, khuyết ít do sức cố gắng của tất cả nội đàn, nhưng muốn các bạn đã tiến, cần phải hăng hái tiến thêm lên, lấy ưu bổ khuyết cho trọn vẹn, nên phân tách khuyết điểm của một số môn sinh Học và Hành Đạo để sửa chữa.
Học thì chưa đến đâu, Hành còn bê tha chưa thấy nỗ lực, mà hễ may ra có chút thấy biết đã huênh hoang cao giọng khoe khoang, lấy mình làm mẫu, dương dương tự đắc, mong cầu được tiếng khen, bất chấp đức khiêm tốn. Vì thế buộc lòng Thầy phải dạy rõ ràng trong Thi Bài của đàn thứ nhứt.
Tôi phân tách sơ lược mà thôi, bạn suy gẫm và tìm kết luận. Bạn đã rõ ý nghĩa của Vô Danh Tiên Trưởng, cái Bản Lai của chính mình. Thầy chứng lòng Trẻ có Tâm Thành và ban bố Điển Thanh cho Sáng Trí vừa xử thế vừa tu thân cho được siêu thoát. Trẻ nào có công lo, học hành đều vẹn vẽ, đáng phận trò, được như thế Thầy hộ phù vui toại: “ Để con yên ổn Đạo chăm lo”

Tôi thường nói:
Cao thâm Đạo Pháp siêng mò
Muốn nên, thì phải nên trò trước đi

Đã nên Trò chưa mà ham mong làm Thầy, xưng Tổ? Đó có phải là tâm thành, là hiền lành từ thiện chăng?

Nhủ khuyên những việc hiền lành
Chỉ cho đôi đoạn Đạo Hành nội công
Các con trẻ một lòng giải thoát
Nương Pháp thuyền trở gót bờ kia
HÀ THANH gìn giữ khóa chìa
Các con triệt để chẳng lìa nửa ly…

              Để cho ham muốn dấy lên, sóng phủ thuyền bao vây nhận chìm Bát Nhã, đó là giải thoát chưa? Mở đỏi kéo neo rời bến Mê qua bờ Giác hay còn bị xiềng xích ở bờ bên này?
Cái khóa chìa do Hà Thanh nắm giữ, phải triệt để tuân theo, sai nửa ly, đi xa ngàn dặm.
Hà Thanh là tôi đây chăng?
Cũng có lẽ, cũng có nghĩa là như thế, nhưng thật ra cũng không đúng như thế. Phải rõ lẽ Thực Hư, Hư Thực của Đạo để sáng tỏ Cội Nguồn.

Sợ khó hiểu Thầy ghi tỏ rõ
Đạo Vô Vi vạch rõ lối đường
Hà Thanh cầm đuốc tiền phương
Các con noi dấu trên đường về Nguyên

Hải Yến “Hà Thanh” triệu Thái Bình Thiên Hạ là Biển Lặng Sông Trong, triệu chứng của Thái Hư, Hòa Bình Thanh Tịnh của Tiểu Thiên Địa, là “Tâm Thanh” của mỗi người đó:

Thanh Tịnh vô hà Nhứt Pháp Thân
Như liên xuất thủy bất nhiễm trần
Phân minh hiện xuất thiên giang thủy
Thiên nguyệt hườn đồng Nhứt Nguỵêt Chân

Thằng Hà Thanh này là Ngón tay chỉ mặt trăng mà thôi nào phải là mặt trăng thật sự là Nhứt Nguyệt Chân là Tâm Đăng. Cái chìa khóa do Bản Thể Thanh Tịnh của Tự Tâm hiến cho, chớ Hà Thanh đang hiện diện trước mặt bạn làm sao tặng được, vì là sở hữu của bạn kia mà. Ông Thầy hữu hình mượn giáo phương, ghi rõ lối đường hướng dẫn các bạn trên đường về Nguyên chơn thật là Vô Tướng Tánh, chớ đã là hữu hình, có dùng phương tiện giáo hóa, có tiếng có danh là Hư Giả, đâu phải là cái Cựu Chân.

Đạo Vô Vi thật Pháp cao xa
Hữu Vi ấy sanh ra dối giả

Bạn cứ ỷ lại nơi tôi, chạy theo sát cánh, tôn sùng kính nể, vây quanh cúng dường, cung phụng mọi mặt, có ích gì cho nội tâm và trái với quy tắc tự tu, tự độ, bạn mò trăng đáy nước rồi khi trăng lặn nước xao, còn để lại gì cho bạn, rốt rồi có tu mà chẳng đặng hoàn quy Tông Bổn: THANH TỊNH TRÍ HUỆ.
Hà Thanh đã được Thầy dùng Hai lần trong một đoạn thi bài để chỉ rõ lẽ Thực Hư ấy. “Hà Thanh” trên trước, nắm chìa khóa giải thoát là Sông Trong, biển lặng Minh Châu hiện, chính là Sư Trưởng trong Tâm Địa của bạn. “Hà Thanh” dưới sau là người thủ đuốc Huệ tiền phương, đưa đường dẫn lối mà thôi.
Tuy nhiên khi bạn chưa có Đèn Trí Huệ, chưa có Đuốc Sáng ngấm ngầm vô vi kính đáo ấy mà bạn tự phụ điên rồ, tách rời một nửa ly, lạc tay lái đâm bờ lề, phải sa hầm sụp hố như thi bài diễn tả rất hay và hình dung đúng đắn.

Đừng tự phụ rồ điên lầm lạc
Chim Đại Bàng trong hạt trứng kia
Nở ra chưa kịp trau tria
…………………………
Nương cây gậy trúc cầm tay ích gì?

           Thật là một Thi Bài vô giá về Đạo Lý cũng như về phương diện văn chương gồm hai trường hợp: Chim Đại Bàng và Manh Nhơn để dẫn chứng biện minh:
1- Đại Bàng Điểu là vật thần thoại, tiêu biểu cho sinh khí của không gian, cái vóc khổng lồ trùm bao vũ trụ.
Hai cánh xòe ra che cả Nhựt Nguyệt, làm đen tối cả bầu trời. Hai cánh tung bay một lượt mau 18 muôn dặm. Cổ kim có ai thấy tận mắt con quái điểu ấy? Phải là dị đoan chăng?
Hãy truy nguyên thì rõ!
Nó là Chim Trống, đồng với nguồn cội với con Công Mái là Khổng Tước ma vương, ám chỉ Âm Dương: Nhị Khí của Thái Cực:

* Dương Khí động biến là Sanh Khí
* Âm Khí bất động là Bất Sanh Khí

Các bạn luyện Chơn Dương, gầy dựng hạt trứng Phụng Hoàng, cái bồ đề chủng trí của nhà Tiên, Chùa Phật. Là giống to lớn, thần thông quảng đại vô cùng, nhưng mới nở ra ít lâu, còn trụi lủi như gà con, chập chững tập bay, nhảy cà chớn ít cái, chơn chẳng lìa khỏi mặt đất, ễnh mình ngóng cổ quạt cánh tung tăng, lại rớt tũm xuống ao, bườn lên tèm lem ướt át, đồng bầy thấy dị hình nhào vô cắn mổ lung tung, tét đầu sưng mặt. Tuy nhiên vẫn đặng tồn sanh vì không té nặng bằng loại Đại Bàng, Bạch Hạc trên ổ cao chót vót ngọn cây Tam Bảo. Còn non nớt chưa đủ lông lại chanh ranh phóng ra khỏi vị trí, làm giỏi, làm khôn, múa men bay nhảy như đã đặt câu hỏi:

“ Nở ra chưa kịp trau tria
Cánh lông chưa đủ bay vìa nơi đâu?”

           Rõ ràng quá! Chắc chắn sẽ rị cái ình xuống đất nín thở luôn như kẻ tự sát nhảy cửa sổ lầu ba tầng của cao ốc.
          Tôi đã bao phen nhắc nhở các bạn không nên sớm dùng Trí Huệ khi nó còn non, nguy hiểm lớn lắm, nếu bất chấp họa sẽ theo bén gót và khuyên hãy lo tập trung nhiên liệu sẵn sàng, gom góp khí lực tản mát đó đây cho đầy đủ giúp Huệ Tâm phát, trực giác khai rồi mới thực dụng nó để âm thầm tự soi rọi, dò dẫm đường đi.
LỤC TỔ cũng đã dạy: Bất nghi tốc thuyết, Phật pháp nan khởi
Vài bạn chẳng đếm xỉa buộc lòng tôi phải báo cáo và Thầy dạy bảo từng ly, phải nghiêm chỉnh tuân hành mới được sự hộ trì của Sư Phụ.
Đại Bàng Điểu cũng như Bạch Hạc là Huyền Quang của Tâm Đăng, là phần Trí Hóa của Tâm Tánh. Hạ trần làm yêu, là Muội Trí, ngăn đường gây hại cho khách Tây Du. Khi được Phật Tổ thâu về đặt lên Hào Quang của Phật là Cái Sáng của Bồ Đề Huệ Trí.
Thầy rất tiếc cho các trò còn non nớt, điển rất yếu, đèn còn lu mờ như đom đóm lại gấp dùng để soi đường như kẻ mới có tí tiền đem ra phung phí, vốn liếng tiêu tan tức khắc. Hãy cố gắng tập luyện chờ ngày Huệ Đăng tỏ rạng mới nên. Hiện nay đã sẵn có Đuốc Huệ hướng dẫn, thì nương ánh sáng ấy, gỡ lần bóng đen, phá chông gai chướng ngại, tội gì cứ nhắm mắt mà đi với cây gậy trúc.

Tội chi nhắm mắt đi hoài
Nương cây gậy trúc cầm tay ích gì?

            Đây là trường hợp thứ hai của Manh Nhơn tìm Đạo trên đường hoành ngọa.
Hay quá! Lời lẽ thông thường vắn gọn mô tả đủ đầy và hình dung đúng đắn một manh nhơn hành Đạo với dụng cụ dò từng bước là cây gậy trúc.
Một người Bà La Môn hỏi con trai: Cái gì làm ra Ánh Sáng?
Đứa con lẹ làng trả lời “Mặt Nhựt”
Không có mặt nhựt như ban đêm, Cái gì làm Ánh Sáng?
Mặt nguyệt!
Không có mặt trăng?
Thì là Sao!
Khi Nhựt, Nguyệt , Tinh đều không có?
Đèn!
Không có đèn?
Mắt!
Khi mắt đã mất?
Thì là Trí Hóa!
Câu chuyện sơ lược trên đây dạy cho tầm phăng Nguồn Sáng là ĐẠO:
Đạo là Nguồn Sáng thật cao
Rọi vào tâm não kẻ nào thiện duyên.
Mượn cái ngoại mình, để chỉ ngay nơi Tiểu Thiên Địa, cái căn bản của Đạo ở trong Tâm Nội là Trí Hóa, ứng dụng ra đôi mắt, cửa ra vào của Thần Quang.
          Cái thành phần Trí Tuệ của Tinh Thần đã sẵn có nơi mình, tại sao lại lấy màn đen bịt lại, chôn nhốt đèn trong thùng, lấy mi dầy che mắt, không cho nó phát huy soi sáng? Sao lại ngu muội lạc sai, hành động vô minh như thế?
Trí Tuệ sẵn có, mắt vẫn đủ kia, không chịu khai mở, không chịu giải thoát ra khỏi xiềng xích vô minh để nhờ đèn pha soi đường dẫn lối tiến. Cây gậy trúc nào phải cây đèn, chừng nào nó giúp soi sáng cho mình được.
Đã là Manh Nhơn vô kiến tri lại thủ chấp manh vật vô giác thì có thực dụng gì chứ? Hơn nữa Bản Lai Tánh không trú trước trên chiều ngang của đường hoành ngọa mà là trên chiều đứng.
Dùng dẫn chứng để biện minh: Đại Bàng chưa đủ lông- Chỉ vào người trau luyện bực Đại Thừa, có đắc Huệ nhưng chưa đủ sức mạnh của Hỏa Tiễn, Phi Thuyền làm sao Trực Thăng theo chiều hướng đứng, rồi sẽ ra sao, bay về đâu?
Nên nghiên cứu, suy xét cho chu đáo, phải giữ đúng quy tắc của CHIẾU MINH lo tự tu tự độ, chờ cho đủ vóc “Minh Chiếu” mới nên đem ra thực tập, gấp gì cầu cao, hăng say thuyết pháp, nói kinh giải truyện để cố lôi kéo nhiều người theo mình rồi rước lấy thất bại chua cay, nhiều tai hại lớn.
“Người mù” chỉ vào hạng tu niệm theo lối hữu vi, mò đường lần chân sát mặt đất như rắn rùa, nương tựa vào phương tiện hữu hình, âm thinh sắc tướng, chỉ có vóc bề ngoài mà ruột trống rỗng tượng trưng bởi cây gậy trúc, có xác không hồn, có nhà mà vô chủ, như tủ sắt không tiền, cuối cuộc sa vào hang sâu đen tối, mất ánh sáng, hết dưỡng khí rồi nhập thổ.
       Đây là trường hợp của Hai người giữ dê, MÊ và GIÁC đều làm mất dê. Kết luận thi bài rất rõ ràng để học và triệt để thi hành.

Bao lời để xét suy cho thấu
Hãy luyện trau noi dấu đàn anh
Vội gì gieo rải điển thanh
Trong khi còn thiếu điển lành tâm can
                   Và
Khi Minh Tâm rõ hình Tự Tánh
Trở về Nguyên đường chánh tầm phăng
Khó chi nẻo Đạo trầm thăng
Lòng người bền bỉ vạn năng trong đời...

Lòng-Trong-Tánh-Sáng hiệp nhau một vóc do:

Bí pháp luyện trau lìa “bảy thể”
Trở về Nguyên vị đắc kim thân.

Bảy Thể chỉ vào Tam trần Tâm, Tứ Giả Tướng.
Tỉnh thế ngộ chơn nói:

Nhược tảo tam tâm phi tứ tướng
Năng không ngũ uẩn hiện toàn thân

       Chẳng phải bảo hủy diệt mà phải quét sạch cái vô minh của Tâm và trừ cái giả của tướng, để trở thành Tam thân Phật, Tứ Trí Bồ Đề của Nhứt Bản Thể Chơn Không, gọi là Phật Tự Tánh, là Kim Thân Phật.
Bảy Thể nặng nề ô trược ngăn che trì kéo như vàng lộn chì thau trong thể khoáng chất, phải dụng hỏa công để phân kim, thanh lọc, giải thoát cái nợ trần đeo đẳng ấy cho Minh Tâm và Kim Thân nguyên hình xuất hiện là Kiến Tánh.
TÁI CẦU
Linh Quang Thổ Địa là Tánh Tâm, Bản Nguyên là Nhứt Đại Khối
Hạ trần (giáng bút) chia ra hai tiểu khối: Linh Quang và Thổ Địa. Phân thân từng điểm một (mỗi chữ) ẩn trú khắp nơi trong một vóc thân (một bài thi) có đặc tánh, màu sắc riêng biệt: xanh, đỏ v.v…
Đố ai biết được cái lẽ mầu nhiệm kín đáo ấy. Nói trúng là người biết được Bổn Tâm, thấy Bản Tánh, ta phải chịu thua vì ta đang ở vị trí bá tánh, vạn tâm nơi thiên hạ. Chịu luật tương đối cạnh tranh, hơn thua cao thấp, thắng bại, đắc thất. Cái thân nửa tiên nửa tục ấy đem ba bảo vật (ba chung đào tửu) đã hiến tặng ra cá cuộc trong đêm khuya canh bạc, rủi ro thua sạch trơn, Linh Quang đã mất chỉ còn Thổ Địa, vàng bạc chẳng còn chỉ còn sót lại cái hồ bao trống rỗng, lấy gì làm lộ phí trở về, phải lảng vảng tại đây, báo tin chờ “giờ Tiên đến” để xin xỏ, bòn mót từng ly một cho Tam Bửu vãn hồi.
Đàn này diễn ra tột hay, không nói nổi, mỗi lời mỗi sự chứa đựng đạo lý uyên thâm, tôi cố bươi móc ra đến đâu hay đó vì hàm chứa cái máy linh của Tiên tục là “Tạo-Hóa-Cơ”.

Về năm thì rốt Hợi đầu Tý
Về giờ cũng vậy, đúng lúc nửa đêm
Về mùa thì Đông tàn Xuân đến

    Cơ hội tốt nhứt, đúng lúc nhứt giữa Tiên tục gặp nhau, âm dương giao thới. Jésus phán: “Quả thật! Quả thật! Ta nói các ngươi không biết được ngày giờ ấy!”
Đúng vậy! Môn đồ còn chưa biết thay, huống là Tín Đồ hay quần chúng. Ai tiết lộ cho biết ngoài ra Đạo Tâm là Linh Quang Thổ Địa .
“Giờ nay Địa giáng báo tin có Chư Tiên tá bút)… vừa đúng lúc
Bồ Đào tam trản Địa đành tan.
………………………………
Linh Quang đã mất hẳn như đêm ba mươi, trăng cuối tháng.
Thổ Địa trọn vóc thuần âm, cô độc, cái ấy báo tin CỰC ÂM sắp SANH DƯƠNG.
(Tiếp đến Chúa giáng sinh…)
Môn đồ học hành mau chuẩn bị nghiêm trang, sẵn sàng đón tiếp cho đúng lúc giờ phát sanh nơi sản xuất cho hiệp thời cơ.
“ Vì thượng lịnh không thể bỏ hẳn lễ Khai cơ…”
Thượng lịnh là gì đây?
Phải chăng một chiếu chỉ có ấn ký của Hoàng Thượng?
Không! Không nên có ảo tưởng như thế, đó là Định luật tuyệt đối tối cao, bất di bất dịch của bộ máy Hành Tàng, tối linh tối thượng không thể bỏ được, không thể làm khác hơn được.
Có tất niên phải có đầu niên,
có bế cơ phải có khai cơ, nhị nguyên của nhứt bổn. Phải chia hai cái khối Bát Tiên là lý ấy.
Giờ nay có Tứ Tiên, khai cơ có Tứ Tiên.
             Chư hiền có biết lý do của sự sắp xếp trước ấy chăng? Có Tiên tri cái lẽ phân chia âm dương là Hà Tiên Cô, Hàn Tương Tử chăng? Ta mách thót cho biết: vì sợ đi chung, Nam Nữ thọ thọ bất thân, sẽ có chuyện lôi thôi rắc rối!....
Địa nhờ xin với Hàn Tương Tử để dành cho ta “một ly rượu bồ đào” vì ta đang ở vị trí kiệt quệ, nghèo khổ không tiền mua rượu, đã sạch túi cạn bầu rồi.
Hay quá! Thấm thía vô biên với lời ấy! Tôi nhắc sơ và trích yếu mà thôi vì đã giải rành trước kia rồi, nhứt là chuyện diễn ra tất niên năm qua giữa Hàn Tương Tử, Hà Tiên Cô, cặp Thiếu Dương Thiếu Âm của Càn Khôn đại khối.
          Hễ đi chung, tiếp xúc nhau là có xung Hòa lôi thôi bí mật lắm. Nên rõ thật hư của máy hành tàng để phân biệt chơn giả.
Khi Đông Chí nhứt dương sanh, nói là Tiên non Hàn Tương Tử đến. Môn đồ phải gián tiếp căn dặn để dành, gìn giữ bảo tồn ly rượu quý để cung cấp cho Địa (Tâm) đang khô khan vừa được nẩy một mầm non độc nhứt, nếu nốc cạn chén lưu ly theo tư ý thì “mất giống” và cùng ta nằm ỳ trên mặt đất, làm gì đâm chồi, đơm hoa kết quả do mộng đã thúi hoặc bị “đớp mất”.
Hàn Tương Tử là linh Quang Chơn Tánh
Thổ Địa là Chơn Tâm, một vóc toàn chơn, TÂM hiệp NHỨT.
Ban sơ là vậy, chưa bị chọc ghẹo phá khuấy, thanh tịnh sáng soi, dạy dỗ khuyến nhủ, khen tặng mỗi mỗi lập tâm lo ĐẠO ĐỨC biết đem của quý dùng cho Đạo, dự tính ấy rất đẹp xinh hầu hưởng vinh quang muôn đời và lo sợ cho môn đồ còn mới trước cảnh giá lạnh đông tàn nguy hiểm này, như bài thi xưng danh đã mô tả rõ rệt. Cái máy xoay vần, hết sáng lần lần hoàng hôn lố bóng, âm khí dấy lên, Bà Địa chọc tức, khởi sanh niệm, xét đoán phê phán:

Các hiền chớ vội trách hờn TA
Thổ Địa Linh Quang thật quá đa
Nói xấu không kiên chi bực Thánh
Chừng về sẽ rõ chuyện gần xa!

Tôi đã ghi chú trước kia, bạn hãy xem lại, tôi nhắc thêm cho nhớ: Tâm Không là nhà Tiên, chùa Phật là Thể, Ông Chủ nhà, Chủ Chùa cũng gọi là Ông Tiên, Ông Phật là Tánh Dụng:

Ngộ không Thổ Địa vốn chung nhà
Thổ Địa là Con chịu lịnh Cha ...

      Thổ Địa là tai sai của Ta lại quá xá mấu dám thêu dệt đủ điều, chọc ghẹo Ta là Tiên là Ngộ Không Đại Thánh. Chớ vội trách Ta, nguyên nhân tại Thổ Địa kia mà. Vừa nổi cáu lại nghe lời nhắn xin rượu của y thị làm cho Ta thêm bực dọc, tại gió tăng thì lửa phải lên cao ngọn. Thật là trớ trêu:

Thêu thùa đủ chuyện còn xin rượu
Ta uống hết trơn chẳng để ngài
Mai mốt đừng còn thèo lẻo nữa
Muốn xin! Khen tặng phải là hay!

     Hàn Tương Tử được tá danh để tiêu biểu cho NHỨT KHÍ CHƠN DƯƠNG cũng gọi là “Ngươn Tinh” Tâm Địa biết đặng thì mai mốt đừng có lỗi lầm thèo lẻo mách thót, tiết lậu cái chuyện lôi thôi (tà niệm) Tiên Cô này TiênCậu nọ nữa làm cho Ta (Ngươn Tinh) giao động “nổi Sân”. Hãy giữ kín chặt chẽ cái bí mật ấy, đừng tiết lậu ra ngoài, nếp đã thành xôi, đâu còn rượu mà hòng xin xỏ. Phải tốt mồm đẹp miệng hương khí thơm tho chẳng là hơn, ai bảo miệng ăn mắm ăn muối mở xú bắp cho cái mùi ô trược ấy xông lên làm chi cho phải khô môi quớt mỏ. Càng hay hơn nữa là:

Hơn nữa kỳ này được lịnh trên
Chư Tiên tá bút để ghi lên
Trọn niên hằng giáo Trung-dung-Đạo
Nên mới Tứ Tiên, Giữa chọn tên

Biết chăng? Kỳ này Ta được Lịnh Trên sai ra đi là do tự nguồn gốc Vô-trung-sanh-Hữu để ghi lên, để gầy dựng cái Trung Dung Đại Đạo mà trọn niên hằng giáo hóa và chọn ngôi giữa chi phối Tứ-Hành (Tứ Tiên) làm Chủ dành cho Tiên (Nhơn đứng bên Sơn) là Tiên-Thiên-Nguyên-Khí, “Tiên” là trước:

Đâu phải tại vì Hàn chọc ghẹo (tà niệm)
Ơn Trên buộc phải tách Công Đền
Là Tiên đâu phải như phàm tục
Thổ Địa khéo bày, phá bực trên

Ta xuất hiện theo lý Tự Nhiên của Chơn-Cơ Tạo-Hóa để thi hành Đạo Pháp (lịnh trên) chớ đâu phải như trước kia của niên rồi còn lạc hậu, còn là Tiên nhiễm Tục, Tiên vui tánh, ưa sáo ưa tiêu (tâm phàm tánh tục), hữu tình hữu niệm mà sanh rồi tự ý phát lên chọc ghẹo Hà Tiên Cô, bị bắt buộc phải ra khỏi trung tâm bình đẳng, thiên bên giác, ngã bên mê, lung tung bất nhứt. Lúc giác thì cự nự Lam Thể Hòa là Tiên nhỏ dám đùa với Ta, rồi mê muội cợt Hằng Nga, rồi lại tỉnh ngộ phóng tuốt lên cao chẳng buồn ngó xuống …
Giờ đây là Chơn Nhơn, Chơn Tánh đâu phải phàm tục nhiễm tâm mà Thổ Địa còn khéo bày chuyện phá Ta nữa được. Lộn xộn rộn ràng thì thôi cho cái “Bà Địa” ấy!
Đã góa chồng mà còn muốn say sưa à! Còn muốn hưởng men nồng cho đôi má ửng hồng, mặt mày hí hởn!!! Hứ! Mắc cỡ lêu lêu! Lêu lêu mắc cỡ!

Xách Hồ Lô chạy đâu hăm hở!
Rượu hết rồi! Mắc cỡ lêu lêu!
Vừa nghe ba tiếng cu kêu
Tưởng là Tết đến dựng nêu “có chè”!

            Dù một ly Ta cũng không cho, Ta cố giữ lại cái Hạt Bàn Đào ngậm “Mộng Giác” trọn vẹn cho Ta, đang lúc giữa đêm cuối tháng, âm thầm phôi thai gầy dựng, tam dương khai thới, lần lượt Ba Tiên sẽ đến, Tiên trẻ Lam Thể Hòa đêm mồng ba, Tiên bực trung Tào Quốc Cựu đêm mồng tám và đêm rằm Tiên Già Trương Quả Lão, Ba vị Thiền Sư Ẩn Nguyệt ấy sẽ mỗi Ông một ly Đào tửu, góp lại đủ Tam Bôi, cho Đạo Tâm bất nhiễm phục hồi Nguyên vị và mặc cho “Bà Địa” chạy đó chạy đây, leo chuyền tứ tung trên mặt đất hoặc ngồi chễm chệ trên bàn cỏn con cười tót tét vui hưởng chè xôi, ngọt bùi mùi tục cho thỏa thích.
Đàn cơ đặc biệt, diễn xuất rất hay, chỉ ngay cái “Máy Linh” mầu nhiệm vi diệu, muôn đời giấu kín không dám tiết lộ vì là mấu chốt bí yếu, tối quan trọng của Cửa Huyền.

Thiên luật cấm nghiêm vô vọng tiết
Tri âm trân tảo tích Công Nhân

       Tôi lột trần như thế cũng đã quá lắm rồi, các bạn cố tìm hiểu thêm để phát minh trọn vẹn.

Phàm nhơn đắc đạt kỳ trung ý
Tiện thị Long Hoa Hội Thượng-nhơn
Chơn thành kỳ đảo Minh-Sư ngộ
Chư Phật mặc hựu Thiên Mạng lâm

      Phải tự biết Mình để rồi biết được Thượng Đế và Vũ Trụ, muốn biết mình phải thấy cho kỳ được cái gì đang trải qua trong Tâm Nội. Tất cả hành động đều bắt đầu nơi Thổ Địa, cái trung ương Mồ Kỷ ấy. Nhìn kỹ vào mình để nhận rõ Chơn, Giả của Nó. “Chơn Tâm” bất nhiễm là Tôn Ngộ Không. Khi thấy Bảy con nhền nhện cái đang đùa vui dưới ao Trạc Cấu thì khinh khỉnh, hóa Con Ó Già (diên phi) xớt hết y phục của đám Nữ Quái và ngạo nghễ bay về nơi Sư Phụ đang chờ đợi, vui cười sung sướng mặc cho chúng loã lồ trầm mình dưới ao lạnh lẽo.
Trái lại Nhiễm Tâm là con heo lòng, là Trư Bát Giới khi việc ấy lọt vào tai quạt mo, bôn ba chạy đến nơi, cởi trần truồng, phóng mình xuống ao, hóa cá leo (ngư dước) loạn hành, chăm chú vào nhược điểm của Gái Yêu mà tung vào, bất chấp sự chống chỏi, ngang nhiên làm ẩu theo ý muốn riêng tư, để chừng tỉnh ngộ nhớ Thầy, nhảy lên bờ rút khí giới toan đập chết Thất âm Tình để trở lại chốn cũ, đã không trừ được lại bị tơ lòng vương vấn, vấp chơn té lăn cù, vập mặt u đầu, đổ máu mang thương, may mắn thoát chết … Hãy tư duy kỹ càng để rõ Chánh, Tà của Tâm Tánh do Thổ Địa và Hàn Tương Tử là HAI diễn viên xuất sắc của màn này.
 ĐÀN THỨ BA
    Minh Y Đồng Tử tá bút để khảo dượt môn đồ và đưa vong về quê cũ. Cũng chẳng ngoài việc đã giải.
Muốn thoát trần, trở về Tiên phải ráng nghĩ suy để dò đường định hướng, phải dồi trau Bí Pháp tâm truyền của Vô Vi Đạo, ngoài ra không có cách gì khác để hoàn quy Tông Bổn.
Lưu Thanh, Minh Đức bạch trình khá đúng 80%. Riêng Bùi Ngọc Anh giãi bày đầy đủ: ý chính xác, văn tế nhị, trọn vẹn 100%, xứng đáng một mầm non mạnh mẽ vững chắc và chứa chan hy vọng ở tương lai. Phần Chi và Hùng không có cho điểm vì chưa phải là Môn Đồ trau Đạo như Lưu Thanh, Minh Đức, cũng chưa sắp bước lên nấc thang Đại Thừa như Ngọc Anh.
Còn ở vòng ngoài nhưng biết đặng Chơn Lý của Đốn Giáo Pháp, lo gìn giữ Hạt Nhân chờ ngày thuận tiện đem ra gieo trồng thì khỏi phải chịu trường hợp của kẻ nông phu có công cày cuốc, tưới nước vun phân mà vô mễ chủng. Xét về khía cạnh trình bày không kém chính xác. Biết lấy sự tu sửa làm phương nương tựa, biết dùng Đạo làm nguồn an ủi thiêng liêng trong thời gian chuẩn bị cũng là hữu Duyên-phúc rồi, Ơn Trên chấp nhận và không cấm cản việc ấy.
Đã phân tách, suy diễn rồi quy nạp để kết luận. Nên hư, thành hoại, siêu đọa đều do Tâm Địa, cái Ngôi Chủ Động của Càn Khôn Vũ Trụ, vạn vật muôn loài đã nhiều lần lặp đi lặp lại.
Lìa Bản Tâm mà nói Pháp, mà tìm Đạo thì không bao giờ có.
Nguồn gốc là Vô Vi, là Nguyên Lý Vô Sanh. Muốn trở về Ngôi xưa vị cũ mà không nương theo Vô Vi Đại Đạo thì làm sao hườn quy Nhứt Tông Bổn, phải chịu định luật phân hóa biến thiên nơi vạn thù, có tu niệm rốt rồi vẫn kẹt trong vòng sanh diệt.
Muốn thoát ly tương đối vui buồn, khổ lạc phải thấy một chiều, không lấy không bỏ cho Nhân Duyên đủ đôi và hễ bước lên đường trau Đạo không nên mảy may luyến tiếc cuộc đời để bị quá khứ tâm áp bức như các môn sinh đã trình khá rõ rệt.
Khi chướng ngại ngăn đường, yêu tinh cản trở, mắt thấy tận tường cảnh mê ly đầy hấp dẫn, cứ bình thản giữ Giác Tánh an nhiên bất nhiễm, nhẹ nhàng bay luyện trên cao, ngoài tầm tên đạn như Tôn Ngộ Không và đề phòng trường hợp Tâm vô minh dấy lên, tuy chưa thấy hình, vừa để lọt vào tai điều khiêu gợi quyến rũ, cuồng phong nổi dậy bon bon phóng ra khỏi vị trí của sãi Tây Du mang mỏ dài, tai lớn đến trầm thân vào ao tù nước đục như trâu heo nằm vũng mong hưởng chút thoải mái tâm can khi bị nắng hè nung bức.
Có duyên với Đạo mới hiện diện nơi CHIẾU MINH đạo tràng và dự thính lời châu ngọc của Tiên Phật. Tùy trình độ mà hành động mà tu tiến. Trước tiên phải hiểu rõ và lựa chọn đúng đường trúng lối, khỏi uổng đời tu. Người đã lãnh Chơn Truyền Y Bát, tập luyện Huyền Công phải nỗ lực dồi trau, giữ gìn đúng mức.
May duyên lớn phúc, đắc pháp ngấm ngầm huệ phát giác khai, thấy được ấn chứng phải bảo trì cẩn mật, càng cao càng dè dặt khiêm tốn, không khéo để cho tham vọng dấy lên làm trục trặc máy móc, khói đóng bu-gi (bougie) phi cơ cắm đầu xuống đất, hồn xác tan tành vì lẽ bay cao té nặng.
Hiểu biết và hành y, đàn thứ ba, màn chót của tuồng Đạo, Minh Châu xuất hiện duyệt xét điểm công, đưa Chơn Linh trở về nhà xưa cựu cảnh, Cha Con đoàn tụ. Mượn bài thi xưng danh Bùi Hà Đông giáng để chỉ rõ lý mầu.

1- Bùi ngùi thương trẻ đã tầm tu
2- Hà hải rộng tri thoát ám mù
3- Đông tỏ vầng Dương soi nẻo tiến
4- Giáng trần chứng lễ lắm công phu

1- Bùi ngùi xót thương cho trẻ ở trần gian nhiều lận đận mà quyết chí tầm tu.
2- Hiểu rộng lẽ Hà, Hải: cội nguồn chi nhánh của muôn sông ngàn rãnh tuôn về “Biển”, thoát khỏi ám mù do vầng Dương tỏ rạng
3- Phương Đông soi đường tiến, sáng như ban ngày, nhờ lắm công phu cực nhọc, có đủ Lễ Nghi dâng hiến cho Cha, được chứng
4- Giám lòng hiếu tử, Tiểu Linh Quang hiệp Đại-Khối nhân ngày Tất niên, chung thỉ nhứt điểm.
Dùng đàn kỷ niệm của Bùi Gia để diễn tả quy mô tổ chức của Nhà Đạo.
Cũng như Nguyên Lý Bốn Thầy Trò Đường Tăng Tam Tạng: một sư phụ ba tử đồ, Bùi gia gồm Nhứt Đại Khối Quang Huy, hạ sanh Ba nam tử: Hà Thanh, Hà Đông, Minh Châu.
4+5 = 9 Đại Huynh là ngôi Thần, Ngộ Không là Sư Trưởng
1+5= 6 Tam Đệ là ngôi Tinh, Ngộ Tịnh là Đồng Tử
5 = Nhị Đệ là ngôi Khí, Ngộ Năng
Từ trên giáng xuống: Thần-Tinh, là Phật ra Tăng
Từ dưới thăng lên : Tinh-Thần, là Tăng về Phật
Giáng thăng đều qua trung gian của Khí Pháp, số Ngũ trung ương Thổ.
Trên là số 4 của KIM , cộng số 5 của THỔ là 9
Dưới là số 1 của THỦY, cộng số 5 của THỔ là 6
Dùng danh từ Anh Tư, Huynh Năm, Chú Sáu để chỉ lý ấy.
Ra đi, thâu hình nhỏ: Sư-Trưởng biến Tử-Đồng.
Trở về, Đồng Tử nẩy nở to lớn hóa Sư-Trưởng.
Nhờ TINH bồi bổ KHÍ đủ đầy, nói Chú Sáu hộ trì Huynh Năm giúp đủ điển để nhập Tiên Đàn quy hồi cựu cảnh tiếp xúc Trưởng Huynh, “Tinh Khí” quy “Thần”, đầy đủ Tam Tạng của vóc Huyền Trang, Quang Huy Nguyên Lý, là Tông Bổn nội tổ.
Hiểu như thế thì Bùi Hà Thanh, Bùi Hà Đông, Bùi Minh Châu của Bùi Gia, thế gian tiểu gia đình không thành vấn đề để suy nghĩ bàn bạc.
Khi đã vượt vòng Vô Vi Đại Đạo để sanh thành, biểu hiện ra hình hài giả thể của Tử tôn, phải nhờ đến sự điều khiển dìu dẫn của Bá Phụ, Trưởng Huynh của gia đình, của Khương Thừa Tướng kiêm Nguyên Nhung trong việc Hưng Châu Phạt Trụ. Tề Thiên Đại Thánh trong Tây Du để quy hồi cựu vị, đoàn tụ Thiên Đường. Phải để Tâm, quật hạ khẩn cầu và nguyện ghi sâu ân đức sánh tày trời biển ấy.
Bạn thân mến!
Thiều Quang thấm thoát, chẳng mấy chốc lễ Tất niên đã đến. Với mười ba tháng mau lẹ trôi qua, chúng ta còn nhớ rõ ràng ngày vui vẻ năm rồi, tiếng nói giọng cười chưa tan hẳn lời chúc tụng còn văng vẳng bên tai, thế là sắp sang năm mới.
Ôn lại quá trình, kiểm điểm bước tiến, chúng ta có thể hãnh diện và tự hào với biệt tài leo dốc nhanh nhẹn, vững chắc vô song đã đạt một kỷ lục đáng khuyến khích. Nhờ sức nỗ lực phi thường, cố gắng vô bờ bến của toàn thể mà tất cả khó khăn đều vượt qua, từ ngoại dung hình thức đến nội công tâm pháp có kết quả mỹ mãn không lường trước được.
Thầy rất toại lòng, tôi cũng được nhẹ nhàng tâm trí do viên thần dược với giọt Cam lồ tẩm bổ, đền bù công khó, giúp xóa tan dễ dàng tất cả uể oải mệt nhọc của thân già suốt thời gian tận tụy cho trọng trách.
Đã có sẵn đà của sức tiến, các bạn nương trớn, mạnh dạn phóng nhanh hơn nữa trên lộ trình mới, càng cao càng gay gắt, vững lái lèo cho xứng đáng môn đồ Thượng Đế, và làm rạng rỡ cho CHIẾU MINH VÔ VI, Đại Thừa Tâm Pháp.
Được vậy chắc chắn Thầy sẽ vỗ tay hoan hỷ và triệt để hộ phù. Riêng tôi luôn luôn ước mong các bạn cố gắng nghiền đi ngẫm lại kỹ lưỡng những gì đã học năm qua, vì là:

Dầu cho muôn vạn kiếp sau
Cũng không hư mất lời nào ngày nay

và như Thầy đã dạy : “Mỗi gì con nghe được nơi đây đều quý báu vô ngần đó con”.
Chúc bạn sáng suốt ghi nhớ!
                                                 ***************
Con, Cháu yêu quý!
Kể từ nay, Cậu chẳng còn xem các con là NỢ mà hẳn thật là TRÒ CON đó. Các con có lắm duyên may, nhiều tiền căn phúc nghiệp mới được Bề Trên đặt vào Đại-tu-hành-gia do đấng khai nguyên gầy dựng mối giềng Huệ Mạng là Quang Huy Thỉ Tổ đó. Nhứt Đại Khối đã phân Ba rồi hóa Năm.
Cậu nhắc con nhớ bài thi lúc mở Chiếu Minh Đàn (Cái Vồn) của Thượng Đế chứng cho Ông và Bà Nội để các con suy nghiệm:

Chứng minh Hai trẻ gặp duyên lành
Cho rõ đường gần lấp nẻo quanh
Bùi ngọt Đạo mầu ai rõ thấu
Quang lai thế sự cả sư manh
Huy dương tiên bút khuyên người thế
Trương máy hành tàng độ chúng sanh
Thị Đạo lâu dài hơn cuộc thế
Mọn lời dặn bảo giảm đua tranh
(Chứng cho Bùi Quang Huy, Trương Thị Mọn)

Khởi đầu rốt năm Đinh Mão (1927) đến cuối năm Ất Dậu (1945) đúng 18 năm (1+8=9) Chiếu Minh Đàn trải qua trọn nửa vòng xán lạn của Phật-Nhựt Mẹo đến Dậu rồi chìm vào đêm tối.
Hai mươi bốn năm (2+4=6) trầm lặng bặt tiếng im hơi, nhộng đã thành bướm, phá ổ tung bay, vầng hồng xuất hiện, Chiếu Minh tái khai cho đủ ba giai đoạn: Đạo khai, Đạo chuyển, Đạo thành.
Phụng Hoàng nằm ấp trứng, mười tám tháng trôi qua, đủ số dương (1+8=9) Ba Chim Bạch Yến nở khỏi vỏ, vươn mình chào kỷ nguyên mới, đúng lúc xuân về, ngàn hoa tưng bừng khoe sắc, đầu năm Thiên Khai Nhâm Tý. Một khối Tam Huê, Ba Nữ đồ đệ trước là Chị Khổng Tước, còn chờ hai trứng Đại Bàng nở sau là hai em trai cho đủ số Ngũ của Một ổ trứng, là Ngũ Khí. Nhắc sơ đại cương các con thấy được quy mô tổ chức ngoại hình của gia đạo để rõ nội quy của Đạo gia. Còn chi vui hơn khi nhìn đàn chim non, lít chít liu chiu vây quanh Từ Mẫu, chớp cánh nhịp đùi lẹ làng mổ từng hạt tấm mẳn, nuốt gọn vào bao tử, và khi no lòng hết rộn rịp lao chao, chui vào cánh mẹ xếp chân nằm im, lim dim bất động. Cứ thế mà sanh hoạt, đói ăn, khát uống, rồi nghỉ ngơi, chẳng bao lâu Cậu sẽ hớn hở thấy chúng tròn lụi với cánh non đuôi búp. Đã thỏa mãn rồi, chỉ còn có ước ao có đủ ngày giờ bảo hộ chúng đến lúc trưởng thành, đủ sức tự vệ khỏi móng vuốt của diều quạ. Rất lành thay!                      
                
                                                                  Trở Lại Mục Lục