Tuất thời, Ngày 01 Tháng 08 Năm Tân Hợi (1971)
                                    NGỘ KHÔNG DƯỚI NÚI BẤY NHIÊU LÂU
                                                      Đồng Tử: Huệ Quang
                                                   Đọc giả: Ngọc Ánh Hồng

Thi
THANH tịnh đàn trung điển tá cơ
VÂN lành đắc lịnh đáp mong chờ
ĐỒNG chung nam nữ lo nghinh tiếp
TỬ báo lịnh trên sắp giáng cơ.

         Tiểu Thánh chào chư Thiên Mạng, chào nam nữ đàn trung. Giờ nay Tiểu Thánh được lịnh giáng báo tin có Đức Ngôi Hai Giáo Chủ lai đàn, chư phận sự thủ lễ tiếp nghinh. Tiểu Thánh hộ đàn xuất ngoại. Thăng

Thi
NGÔI lành muốn đặng phải dồi trau
HAI lẽ trược thanh, chọn lẽ nào?
GIÁO thuyết Thánh Tiên, Thanh phải giữ
CHỦ truyền thoát tục hưởng thanh cao
Hựu
Thanh cao toại hưởng chẳng ưu phiền
Trược thấp trần gian lắm đảo điên
Ma quỷ nhiễu nhương bày lắm chuyện
Lộn nhào nhân thế bởi danh, tiền.

         Thầy các con, Thầy mừng chư đệ tử. Giờ lành nay Thầy tá bút đôi câu để khuyên nhủ các con trên bước đường tu tiến, Thầy cho phép các con an tọa. (đảnh lễ)

Thi
Điển lành ban rưới khắp ngoài trong
Nam nữ toàn chung được hưởng đồng
Ân thưởng các con siêng luyện đạo
Ban cho những trẻ chẳng xao lòng.
Thi
Những điều các trẻ đã tường tri
Có thấp có cao những sự gì
Thầy đã hiểu rành trong các trẻ
Giờ nay chỉ dạy cố lo đi
Thi
Nâng đỡ các con thấp thỏi nhiều
Cậy vào những trẻ đã cao siêu
Tiếp tay Sư Phụ dìu nhân thế
Trở lại quê xưa thuận một chiều
Thầy chọn những con tường hiểu đạo
Bạch trình tỏ rõ lẽ cao siêu
Điều chi chưa rõ Thầy phân giải
Để giúp môn sinh hiểu biết nhiều
Thi
Trước hết Thầy mời trẻ hiểu sâu
Sáu Cang! Thầy chọn trẻ đi đầu
Nghe Thầy vấn hỏi, con trình tấu
Lý lẽ cội nguồn giải lý sâu
Thầy hỏi: “Ngày xưa” còn để lại
Ngộ Không dưới núi bấy nhiêu lâu?
Tại sao lạ vậy? Con bày tỏ
Ngũ Ngũ vuông tròn, lẽ tại đây?

       Trò Cang bạch Thầy tường! Điển ký bình đoạn ấy lại.
Cang dạ bạch Thầy: Thầy đã cấu tạo ra con, bởi vậy Thầy lo giáo dục, nhưng ngôn ngữ của con còn thô sơ, khiếm khuyết không đủ diễn tả tư tưởng, lý trí lại thấp hèn so với lẽ trên, không đo lường đúng mức được. Vậy xin xóa tội cho con nếu con nói sai, hiểu đến đâu con phân bày đến đó, Bạch Thầy.
Đại hỷ, đại hỷ! Thầy chấp nhận ý con.
Dạ thưa: Khi Tiểu Linh Quang hạ trần vào ẩn trú trong xác thịt gọi là Ngộ Không bị đè dưới Ngũ Hành Sơn, Vô đã hóa Hữu chịu ảnh hưởng nặng nề của vật chất khó vẫy vùng, nằm ỳ mà chịu khổ: đói ăn sắt cục, khát uống nước đồng sôi. Ngày nay con đã tu, biết Tề Thiên Đại Thánh là cái Ngươn Thần của con bị Ngũ trược chận đè đã 500 năm. Ngàn năm dùng chỉ trọn vẹn kiếp tu. Trăm năm là nói kiếp trần. Cái kiếp con người của con đã 50 tuổi, mới được Tam Tạng gỡ giùm bùa cho và tự mình phải nỗ lực giải thoát lấy để ngộ Không Tâm quy hồi Bổn Tánh.
             Lời con bạch trình khá đúng, nhưng con đã hiểu lầm một đoạn, Năm Trăm năm mà Hành Giả (người đi đường) phải chịu, khi đến hạn kỳ 500 ấy, Hành Giả mới được giải thoát. Điều đó không phải chỉ vào con người phải đến 50 tuổi mới có thể đắc ngộ, mà 5 đây có nghĩa là Ngũ Báu. Điều này Thầy mời Hà Thanh chỉ dạy tường tận hơn, Thầy cho phép trò Cang an tọa.

Thi
Trò Dũng Kim Quang đắc lịnh Thầy
Vậy trò hãy ráng nói cho hay
Điều này Thầy biết con đã hiểu
Vậy hãy tỏ phân vừa ý Thầy
Lục dục do đâu mà xuất hiện
Thất tình nương tựa ở đâu đây?
Người tu phải diệt hay là chăng?
Vậy trẻ bạch tường lý lẽ ngay!

          Bạch Sư Phụ: Đạo Pháp rất thâm sâu huyền bí, trình độ hiểu biết của con do Thầy ban, vậy con biết đến đâu con xin bạch trình đến đó. Có điều chi sai suyển xin Sư Phụ miễn chấp, bởi vì con học đặng Đạo, hiểu đặng Đạo chớ còn thuyết đặng Đạo là rất khó, xin Thầy từ bi.
Hoan hỷ, hoan hỷ! Trò hãy bạch tường!
Dạ Bạch Sư Phụ: Thất tình lục dục là thập tam ma đều do cái tâm của con người sản xuất ra, ví như tâm chánh thì thất tình lục dục thế nào dấy lên đặng, tâm loạn động thì thất tình làm chủ, nó không trống không, làm sao được hoàn nguyên vì Xá Lợi chỉ xuất hiện trên Vô Bồng Tháp mà thôi. Thất tình lục dục ngăn đường chặn ngõ là 13 tầng tháp ngăn che ánh sáng của ngọn đèn làm sao Huệ đăng rọi khắp được.                      Do đó con người phải dẹp tan 13 tầng của Nhứt Tháp là diệt trừ thập tam ma cho Phật lộ ra nguyên vóc.
Ma Phật là một khối: Khôn làm Phật, dại ra Ma. Con tóm tắt bấy nhiêu đó.
Lành thay, lành thay! Lời con bạch trình khá đúng, Thầy cho phép con an toạ.

Thi
Tiếp đến Thầy mời trẻ chí công
Thượng căn ngộ đạo vẫn chăm lòng
Lưu ly trí huệ lau chùi mãi
Thanh trẻ nghe Thầy vở lý thông
Con biết tại sao trăng có khuyết
Không tròn mãi mãi, vậy hay không?
Vì sao như thế con bày tỏ
Lý Đạo nhớ nghe, cố giữ lòng!
Thượng Lưu Thanh bạch trình Thầy rõ!

        Bạch Sư Phụ: Về lối hiểu biết thì con thấp kém, vậy nhờ ơn trên Sư Phụ hiển hóa tâm linh con được sáng suốt để trả lời những phần học cao siêu.
Phần Tâm Linh là Chơn Tướng của người đời giống như Trăng, có tròn có khuyết, Tâm thể không biến đổi chỉ có tánh dụng là phần Linh Quang mới có tròn khuyết. Trăng non ngày mồng 3 đến trăng tròn là rằm rồi khuyết dần là trăng già, đến tắt lặng là chết. Đó là một định luật bất di bất dịch của vòng Càn Khôn. Phần chơn dương của con đã khuyết, con thọ Pháp Đạo và thực hành cho nó phục hồi vóc tròn sáng chớ con chưa biết thế nào cho nó tròn đầy mãi mãi mà khỏi khuyết trở lại, việc ấy đi ra ngoài tầm hiểu biết của con.
Đại hỷ, đại hỷ! Lời bạch trình tạm đủ nghĩa, Thầy cho phép con an tọa.

Thi
Đến lượt Duy Phong đắc lịnh truyền
Bao ngày học hiểu lẽ Tiên Thiên
Vậy con bạch rõ cho Thầy hiểu
Đường hướng trở về trước bệ Thiên
Người phải làm sao về Thượng giới
Những gì mang trở lại cung Tiên
Vậy con bạch rõ Thầy nghe trẻ
Trẻ hãy bình tâm, hãy tự nhiên!

Bạch Thầy: Con mới tu luyện hơn nửa năm và đã được chỉ dạy cho biết lẽ đọa siêu của định luật nặng chìm, nhẹ nổi. Con Người là nửa tiên nửa tục, hỗn hợp trược thanh do trời đất là âm dương hòa nhau mà sanh thành, cấu tạo và đặt vào trung giái: chơn đạp đất, đầu đội Trời. Mây ở trên cao, rớt xuống thành mưa là do sức lạnh, đó là mây mưa. Nước ở dưới nước, bay lên trở về thượng tầng, mây là do sức nóng đó là mưa mây. Ra đi hạ trần mang xuống bao nhiêu, phải quảy về cho đầy đủ, còn thiếu là chưa về được, con quyết trở về nên cố luyện cho đủ Lửa là Dương Hỏa. Con biết có bấy nhiêu, thưa Thầy.
Lời con bạch trình tuy vắn gọn nhưng rất đủ nghĩa, Thầy hoan hỷ chấp nhận lời con.

Thi Bài
Đêm thanh vắng lòng thành khẩn nguyện
Nương mây lành vài tiếng nhủ khuyên
Các con luyện đạo Tiên Thiên
Thầy thương dạy dỗ hoàn nguyên đạo mầu
Giữa thế cuộc cơn sầu lấp ngập
Vạn khuynh đau tới tấp dẫy đầy
Thương cho nhơn thế buổi nầy
Làm sao gặp đạo của Thầy mà tu
Trẻ gặp đạo thiên thu an hưởng
Thoát họa tai khỏi vướng lụy phiền
Hãy mau ôn cố ước nguyền
Quyết tu đến lúc Chiếu Thiên triệu hồi
Các con trẻ tô bồi đức hạnh
Gieo giống lành cố tránh nghiệp trần
Các con sẽ được nhàn thân
Phước duyên tăng trưởng lần lần ngày đêm
Khi đầy đủ tăng thêm phước báu
Thời các con nên đạo Đại Thừa
Biết chăng trí tuệ dày thưa
Muôn đời tăng mãi dư thừa mà thôi
Đèn trí huệ tô bồi mãi mãi
Không lu mờ không phải hư hao
Dẫu cho gặp lúc ba đào
Rốt rồi cũng được thấy màu lưu ly
Thương vạn loại chơn đi không thẳng
Nhìn muôn người lòng nặng ưu tư
Phải chi nhơn thế thiện từ
Gieo căn lành thiện phước dư hưởng nhờ
Đa phúc đức, thời cơ xuất hiện
Gặp đại thừa, tu tiến rất mau
Đường về Thiên trúc là bao
Đường về động bích vẫn mau vô cùng
Lời khuyên nam nữ thính tùng
Gieo nhân Đạo Đức muôn trùng ngày nay.
Thi
Giờ nay mãn điển trở về non
Chơn bước mà nghe dạ héo von
Thương trẻ phàm gian nhiều lận đận
Mà tu, mà luyện khổ cho con
Đừng buồn nghe trẻ, đời là vậy!
Gian khổ một đời khỏe ớ con!
Dưa muối gìn lòng đừng nản dạ
Rồi đây các trẻ được về non

        Chư phận sự nghe sắc lịnh bãi đàn 10 phút tái lập Dũng Kim Quang thủ cơ, Ngọc Ánh Hồng đọc giả. Thầy ban ơn chung các trẻ, Thầy thăng.
TÁI CẦU

Thi
LINH Điển Linh tá bút bởi lòng thành
QUANG Chiếu Sáng không trung ngọn điển thanh
THỔ Trời Đất chứng tri lòng khẩn nguyện
ĐỊA Đất- Trời đâu phụ kẻ tâm thành.
Hựu
Thành tâm khẩn nguyện chứng tri lòng
Những ai quyết chí chẳng nề công
Tập rèn tâm tính trau cùng luyện
Đạo đức vững bền đắc huệ thông.

Điển ký tả hữu hãy tìm tên ta là ai?
Bạch: câu đầu lấy chữ Linh
Câu kế lấy chữ Sáng là Quang
Câu thứ ba lấy chữ Đất là Thổ
Câu chót lấy chữ Đất là Địa, là LINH QUANG THỔ ĐỊA.

Thi
Khá khen điển ký giỏi vô song
Cố giấu mà rồi cũng chẳng xong
Địa tưởng thành công thêm rượu ngọt
Nào ngờ thất bại khổ cho Ông.
Thi
Nam nữ đàn trung hãy tọa thiền
Đệ nghe Địa nói ít lời khuyên
Dù sao cũng vậy lo cho trọn
Bổn phận của mình dạ mới yên.
         (dâng rượu)
Thi
Nhứt trản bồ đào Địa thưởng cho
Điển văn đáp đúng, đúng vô pho
Hiền Cang giúp Địa trao đào tửu
Địa sẽ phân tường đạo lý cho
Thi
Hiền Nây nghe Địa, Địa xin mời!
Phải kiếm cho ra Địa chẳng lơi
Ông tưởng qua rồi cơn khảo sát
Chưa đâu! Còn nữa ớ Ông ơi!

Bảy Nây mệt ra ngoài ngồi tịnh dưỡng, được gọi vô
Điển ký bình bài thi đó.

Thi
Trước hết thời hiền hãy nói ngay
Vì sao hiền lại phải ra ngoài?
Lý do hiền hãy trình xem thử
Rồi Địa sẽ bàn những điểm hay

         Bạch: Khi nãy con bận lo cho đủ hoa quả tửu hương đăng để dâng lễ, phải thiếu sót công phu nên ra ngoài mót lại chút đỉnh.
       Hiền bảo là khi nãy hiền không đầy đủ lễ nghi nên hiền sợ quở rầy, có như thế hay không?
Bạch: Có đúng như vậy, vì lễ nghi bên ngoài mà thất lễ bên trong, cảm thấy thiếu sót bị quấy rầy đòi hỏi ...
Cười, cười! Ơn Trên không chấp nhứt về nghi lễ mặc dù cũng cần phải có đủ lễ nghi. Nhưng sự thiếu sót đáng trách là do lòng mình không tôn kính Ơn Trên, chớ sự thiếu sót về vật chất có hệ gì đâu. Đừng lo điều đó nữa nghe chăng? Riêng giờ này không phải Địa gọi để quở rầy điều chi cả, nhưng để vấn hỏi hiền đôi câu giáo lý hầu gián tiếp chỉ dạy cho môn sinh hiểu rõ lẽ đạo, vậy hiền hãy bình tâm nghe Địa hỏi:

Thi
Hiền biết tại sao ở thế trần
Người sinh người lão lắm tao tân
Rồi còn bịnh, tử chi thêm vậy
Sao chẳng sống hoài, đỡ khổ thân?

       Hiền nghe rõ hãy bạch trình!
Bạch: Trần gian là sông mê bể khổ, đã trót trầm thân vào chốn ấy thì tránh đâu khỏi đặng điều tứ khổ, vì lẽ có sanh là có tử, có trẻ là có già, có mạnh khỏe là có bịnh hoạn, mà sanh, lão, bịnh, tử đều là đại khổ cho thân, nghiệp trần vay trả là vậy.

Đã mang cái nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa
Nên, hư cũng bởi Lòng Ta ...

          Sống trong sầu khổ đớn đau mà muốn sống hoài chi vậy, để kéo dài vô tận kiếp chua cay hay sao? Hãy tĩnh lòng tìm phương giải thoát diệt khổ để sống với Lẽ Sống trường tồn, ngoài sự đau khổ và hưởng Chơn thường, Chơn lạc, Chơn ngã, Chơn tịnh.
Lời bạch tấu tạm đủ nghĩa, Địa mời hiền an tọa.

Thi
Trò Lộc! Địa mời hãy lắng tai
Đã nghe vừa dứt mới qua tai
Phàm gian sinh lão là như thế
Hiền nghĩ thế nào, ấy dở, hay?
Hiền muốn: nhơn gian tồn tại mãi
Hay mong siêu thoát, khỏi chua cay
Nghĩa là Địa hỏi trò đang thích
Giải thoát phàm gian, hãy bạch ngay!

       Bạch Ngài Linh Quang: Nhờ học hiểu Giáo Lý Đại Thừa, con lúc nào cũng mong ước vượt ra khỏi cái phàm gian dẫy đầy sự cám dỗ. Mặc dù bị kẹt vào duyên trần phải cố mở gỡ lần chờ ngày thuận tiện, con luôn luôn trau tâm sửa tánh, thầm nguyện Ơn Trên giúp đỡ con cho việc thế an bài, nhu cầu vật chất đủ sống qua ngày, tinh thần sáng suốt không quên căn cội, từ từ tiến bước, mong mỏi về nguyên, chớ không thích giữ phàm tâm tồn tại với con, khiến mãi vùi mình trong chốn ao tù ô trược. Chắc con có duyên phần gì đây nên thường được chiếu cố nhắc đến, tuy sánh với đồng bạn con chưa bằng ai. Ngài đã đặt câu hỏi đúng sở thích hiện tại của con là giải thoát, muốn đạt mục đích ấy con phải lo trau sửa dồi mài luyện tập. Đường dài khó khăn vô kể, xin Ơn Trên hộ phù vùa giúp cho con lần lượt vượt qua chướng ngại, cạm bẫy rất nhiều để con vững vàng từng bước một, khỏi sa hầm sụp hố, tuy chậm mà chắc. Con đã bạch trình, thưa Ngài.
Sự mong ước của hiền cũng như của bao nhiêu kẻ khác, đều có thể thành tựu được nếu các hiền vẫn giữ vững sự mong mỏi ấy và cố gắng thực hành những điều kiện, những yếu tố có thể đem đến kết quả đó cho mình. Địa khá khen cho hiền có một ý chí mà đúng là như thế đó, vì ngày trước hiền đã gieo sâu căn lành nên hôm nay không như thế làm sao được. Địa cho phép hiền an tọa.

Thi
Kế đến trò Anh Địa cũng mời
Chủ đề “Lẽ Sống” chẳng buông lơi
Như trên đã thuyết Lão, Sinh, Tử
Như thế nghiệp trần hiểu tận nơi
Đã biết khổ nguy như thế đó
Sao đời cứ mãi, mãi vào nơi
Tại sao như thế? Hiền phân giải
Cho Địa tường tri, Địa cạn lời!
Điển văn bình lại trọn thi đó!

Dạ bạch Linh Quang: Thế thượng vạn bang đô thị giả, nhơn gian đạo đức quả vi chơn. Cõi trần này chịu luật tương đối, mỗi sự việc đều có bề mặt và bề trái của nó, có sinh là có tử, có vui sướng là có khổ sầu. Phải lựa chọn lối sống của mình trong hai lẽ: Giả tạm của vật thể và Thực Hữu trường tồn của Tinh Thần. Thượng Đế đặt con người vào trường đời chịu khó học hỏi để tiến hóa. Vì duyên nghiệp của mình từ trước nên phải trả vay mê muội tạo thêm bao giờ cho dứt.
Hà Thanh nhắc: Hãy trả lời ngay câu hỏi cho gọn: đã biết sao còn nhào vô?
Nhưng sao hiền không nói rõ về câu hỏi của Địa: Đã biết thế gian nhiều khổ não, mà đời cứ mãi mãi sa vào. Tại sao như thế?
Bạch: Đã biết là muôn vàn khổ mà người đời cứ lao mình vào vực thẩm hang sâu của ái hà để tìm cái vui trong phiền não, cái thơm ngon trong bã hôi tanh là vì vô minh mê muội để cho tham dục sử linh, sở vọng tục trần sai khiến, mất quyền tự chủ vì sức cám dỗ mãnh liệt của mùi tục, của sắc, thinh, hương làm cho mê hồn say đắm ngông cuồng bất chấp hiểm nguy như lũ thiêu thân. A nhào vào chỗ đê hèn
Thương ôi! Bươm bướm mê đèn hại thân.
      Thế mà cũng chưa tĩnh thức, lớp này chết, lớp khác xông vô, cam làm nô lệ cho tham vọng đến cận kề cái chết rồi lại ước ao phản lão hườn đồng, xuân được tái lại để tiếp tục lẽ sống “Thiên Đàng” tại thế với vọng tâm muội tánh.
Ôi! Thật là kỳ quặc, biết phải nói sao? Con được nghe câu chuyện hai người giữ DÊ, đều làm mất dê.
     Mê làm mất dê đã đành, đến như GIÁC cũng làm hỏng luôn rồi phải đồng chịu muôn thu lẩn quẩn trong vòng tứ khổ. Muốn mở mang trí huệ, đào tạo tinh thần lại cứ miệt mài say sưa với kinh sách, bỏ quên DÊ là Nguồn Sống thì có khác nào người đời bỏ mất Đạo.
Đạo đâu trên mặt giấy mà kiếm tầm, đã mang chữ Tu mà không biết được BÍ PHÁP TÂM TRUYỀN của phương thức giải thoát diệt khổ thì có khác nào thế nhơn Sống với tâm tương đối, bất nhứt. Cũng có hạng tu hành theo phép Đại Thừa cố phá vọng tâm, diệt trừ lục dục bằng cách đối trị hoặc cấp chế phế chi rốt rồi là hoài công vô ích. Có diệt ắt có sanh, dầu gắng sức cách mấy, đâu cũng hoàn đấy không đem lại kết quả gì, vẫn chung sống với Thập Tam Ma, có ngày bị chúng nó quật khởi và xô nhào vào hố thẳm đành cam lưu lãng sanh tử thương trầm khổ hải vĩnh thất chơn đạo. Biết đặng lẽ Sống Hư Giả của chúng sanh thì hãy cố tìm Đạo Trường Tồn của Phật. Con trình bày theo sự nhận thức của con.
Thưa Ngài!
Lời hiền bạch trình rất chí lý, rất hữu ích cho hậu tấn mai sau. Địa cho phép an tọa.

Thi
Đến đây Địa mới để lời phân
Với một hiền nhân giữ họ Trần
Danh tộc Địa không nêu nói rõ
Chắc hiền cũng biết, biết lời chân
Nghe không Địa hỏi hiền đôi đoạn
TRẦN thế muội mê mới khổ thân
VĂN vật chỉ truyền người học hiểu
ĐỰC hiền Địa gọi thính lời phân.
Thi
Tại sao cuộc thế lắm điều vui
Nhiều kẻ còn non nếm Đạo mùi
Có phải tại vì chưa hiểu thế?
Hay vì ngao ngán những điều vui
Thoáng nhìn thì thấy là vui thật
Nhưng chẳng mấy vui vướng khổ mùi
Vậy hãy bạch trình cho Địa rõ
Những gì hiền hiểu nói cho vui!

Bạch: Chắc nhờ tiền căn phúc nghiệp, nên vừa đến tuổi trưởng thành con may duyên gặp ngay Tâm Truyền Bí Pháp. Nghe qua một lần con đã ý thức được cái Bản Lai Nhân và định mục tiêu cho hướng tiến, Con gấp rút thọ Đạo Pháp và thực hành.
Con luôn luôn nhớ lời của Đại Hiền Triết Socrate: “Các bạn thanh niên đúng tuổi, như cá trước miệng cái ĐÓ. Con nào cũng cố dành chung vô trước, đến chừng lọt vào trong, con nào cũng tìm đủ cách để ra khỏi, nhưng than ôi!”
            Tuổi trẻ đầu xanh, con lại cố nếm mùi Đạo, chẳng phải tại con chưa hiểu đời nên chẳng say sưa ham muốn nó. Nhờ suy luận thâm huyền giúp con hiểu biết nó một cách rốt ráo, tất cả sự vật trên đời đều có bề phải và bề trái của nó.
Đời hay Đạo, tự nó chẳng đáng yêu thương hay đáng chán ghét, chỉ có tâm người cho nó đáng yêu hay đáng chán mà thôi. Sống với tâm bất nhứt, biến đổi vô thường, hết yêu đến chán, hết chán lại yêu.
lMê muội, luyến mến đời đến đau khổ vì nó, mới Giác ngộ sanh lòng chán ghét.
         Nhảy theo Đạo rồi lại cũng vậy với tâm ấy. Người ta thường nói: Khôn cũng chết mà dại cũng chết, chỉ Biết là sống mà thôi. Trong vườn Thiên đàng có cây Hiểu Biết (Bồ Đề, Bàn Đào) ăn được trái của nó thì SỐNG không CHẾT. Hay quá!
Nhờ trí hóa, con biết rõ tác dụng và giá trị của cục kẹo và hạt kim cương, cục kẹo trong tay, kề bên miệng, sẵn sàng thưởng thức hương vị bất cứ lúc nào mình muốn, không khó khăn gì nhưng chỉ thỏa mãn thèm thuồng trong chốc lát rồi tan biến mất. Kim cương ở sâu vào lòng đất, khai thác rất khó khăn và phải dày công, khéo tay giũa mài mới nên vật quý. Nó không có mùi vị nhưng giá trị nó rất cao nhờ ở tự tánh trong sáng, quang minh. Bản Chất cứng rắn bền bỉ muôn đời không phai mòn dời đổi.
Jêsus nói: “Các ngươi là muối, nếu mất mặn đi, là gì đây? Hãy ném ra ngoài sân cho nó trở về đá sạn.”
Con không muốn trở về với cát bụi nên cố Hoàn Nguyên điểm sơ sanh, giữ tròn Tánh Bản Thiện. Thế nên không dại khờ gì đem hạt kim cương đổi cục kẹo. Con tu chẳng phải vì chưa hiểu thế, cũng chẳng phải vì ngao ngán những vui đời và nhứt là hẳng phải vì tín ngưỡng đạo giáo mà là vì Hiểu Biết do học hỏi, suy nghĩ chính chắn, biện minh rành mạch rồi dốc lòng làm theo. Cha mẹ đào tạo xác thân, Trời ban Linh Tánh. Ăn của đất trả lại cho đất, thở của Trời phải trả lại cho Trời, nợ nên mới dứt. Chung thân đại sự của đời con là sự tồn vong của linh hồn. Xác thân là dụng cụ mượn để tiến hóa, nhắm về mục đích Thiêng Liêng cao cả của Lẽ Sống Linh Hồn. Con đem tất cả khả năng phụng sự cho mục tiêu của đường lối đã vạch sẵn không dám chần chờ, ỷ lại vào tuổi trẻ của con vì hơi thở ra không hẹn thở vào, cái sống của nhục thân không có định kỳ chắc chắn. Nếu nó bị hủy diệt bất ngờ trong khi Kim Thân chưa đủ hình thì nương đâu để trở về quê xưa đất cũ. Con trình bày đã hết ý.
Lành thay, lành thay! Lời bạch tấu của hiền cũng vô ngần giá trị. Nếu con người trẻ tuổi như hiền đều có một quan niệm như thế thì có lo chi cõi đời này sự khổ không tiêu diệt được.

Thi
Giờ cũng lắm khuya Địa muốn về
Nhưng còn đôi chuyện chẳng cho xê
Ánh Hồng! Địa gọi hiền nghe Địa
Địa đố hiền nhân đoán chẳng xê.

       Vậy đố hiền biết Địa sắp hỏi hiền điều gì chăng? Bạch tường!
Bạch: Con khờ dại, tục phàm làm sao biết được ý Tiên muốn hỏi gì.
       Điều đó thì Địa đã thừa biết, nếu thế thì Địa có hỏi hiền làm chi. Hiền thử đoán xem Địa muốn hỏi hiền điều gì. Nếu nói đúng Địa thưởng.
Bạch: Không thể nào con đoán nổi mà trúng là thưởng, trật là bị phạt.
Bị phạt là chắc chắn nên con không dám đoán thử.
Cười, cười! Điều đó ta không nói tức là không có, hiền hãy yên lòng mà đoán thử. Bạch đi! Mau đi! ...
Tiên Ông muốn biết con có cố lo phận sự cho tròn vẹn hay có ý nghĩ đăm chiêu, có tham vọng tục trần ra sức làm cho có tiền, tiêu xài theo ý muốn.
Cười, cười! Hiền đoán sai rồi, Địa không hỏi hiền như thế mà Địa chỉ hỏi: “Tại sao độ rày hiền mãi đi trể thế kia? Bạch Địa tường!
Bạch: con vì bận việc làm nên có bê trể, hôm nay lại xe đò hư máy
         Thanh nhắc: Không phải vậy! Đường Đạo mới đúng ý, đường đi thuộc việc của xác thân, ăn thua gì mà phải quan tâm.
Bạch: Về Đạo, con cũng cố gắng tiến bước cho kịp thì, rồi đây con cũng lãnh y pháp để tu.
Cười, cười! Con nói thế mà chắc vậy hay chăng? Đúng lời nói chớ không nói một nơi nghĩ một ngã ...
Bạch: con đâu dám nói sai, Ngài nghi ngờ lòng con, chớ bao giờ con cũng vì Đạo, tuy còn lượng sức mình chớ đã định đường hướng.
Địa thừa hiểu ý con, tuy nói thế chớ Địa vẫn tin tưởng con sẽ đạt thành ý nguyện nếu con cố gắng. Địa gọi Ánh Hồng bằng con, có vừa ý hay chăng?
Bạch: Con rất mãn nguyện khi được Ngài chấp nhận gọi Con, đó là hạnh phúc cho con.
Hiền còn nhớ ngày trước đã có lần hiền xin Địa cho được làm đệ tử thì một Tôn Sư có thể gọi đệ tử bằng CON phải chăng?
       Bạch: Khi ban sơ, Ngài tập cơ bút cho con, con đã xin Ngài nhận con làm đệ tử. Đệ tử là trò con, Thầy là Sư Phụ, được nhận làm con là quý lắm, là đồng huyết nhục của Cha.
Có lẽ giờ này con đã mất bình tĩnh đôi phần, có chi mà con lo ngại, Con hãy an lòng, mọi sự việc của con sẽ thành tựu.

Thi
Huệ Quang! Địa gọi đến trò đây
Trò hãy phân qua trước điện này
Tuổi nhỏ hăng say như thế đó
Biết chăng phúc đức đã liên dây.

       Hiền hãy bạch tường!
Bạch: Con khờ dại, nhờ được phước dư và gương sáng của cha mẹ rọi truyền, con ráng sức lo giữ tu hành, bền tâm với Đạo.
Đại hỷ, đại hỷ! Địa khá khen cho trò đã hết lòng vì Đạo. Hiền hãy cố gắng giữ gìn một bước Đạo bền dai để đạt thành sở nguyện mà muôn đời hiền mơ ước.

Thi
Điển lành đã mãn giã trung đàn
Trở lại bổn nguyên xuất thế gian
Nam nữ điện tiền ôn Lý Đạo
Trau dồi đức tính thoát trần gian
Đạo Tiên học lấy dò đường tiến
Thang nấc từng phần đáo cựu bang
Thoát khổ phàm trần vui lạc cảnh
Tây phương an hưởng thú thanh nhàn.

      Thừa sắc lịnh Đông Phương Chưởng Quản: đàn Ngọc Ẩn kỳ tới thiết lập vào tuất thời ngày 14 tháng 8, Bộ phận thi hành.
Địa giã từ chung đàn nội.

Ngâm
Mãn giờ điện rút hồi quy
Giã chung đàn nội Địa ly ngay giờ!
Thăng

BÌNH GIẢI:
       Thầy dạy tôi phải chỉ dạy tường tận việc Ngộ Không bị dằn dưới Ngũ Hành Sơn 500 năm và khi đúng hạn kỳ ấy, Hành Giả mới được Giải Thoát ...
         Thật là cả một sự lạ lùng khó hiểu cho Học đồ, ngày xưa Tiền bối đã để lại câu chuyện ấy là muốn lưu truyền cho hậu học Tạo Hóa Cơ của Trời Đất, phải diễn ra truyện, viết ra kinh, dùng lời nói, đặt ra SỰ việc để chỉ LÝ. Tôi cũng phải mượn phương tiện cần thiết để dẫn chứng, biện minh như lời nói, danh từ, hình vẽ, số lượng v.v...
Khi đã đặng LÝ, các bạn hãy quên tất cả, bôi xóa hết thảy để không còn một ý tưởng nơi lòng, mới rõ lẽ Vô Vi của Đại Đạo.
Tôi ghi chép lại Đại cương mà thôi, nói sao cho cùng tận.
NGŨ NGŨ là Nhị Ngũ mầu linh của Tiên Hậu hay Thượng Hạ.
Phải đặt nguyên lý, diễn dịch rồi quy nạp để kết luận.
Nguyên Lý Đơn Nhứt tối sơ là Thái Cực là số Một cũng nói là Nguyên Số. Động biến ra đi để phân hóa, Nhứt Bổn tán vạn thù. Bạn đã biết: Một sanh Hai, Hai sanh Ba, Ba sanh Vạn, vạn ... Nguyên số tiến hóa ra Phân số, nói là Thượng Đế phân thân ra khắp nơi.
Một tự cộng với mình 1 + 1 = là HAI
Hai cộng một 2 + 1 = là BA
Hai cộng ba 2 + 3 = là NĂM
Đã đủ yếu tố để sanh thành. Bạn xem bản đồ vẽ và chiêm nghiệm kỹ để toán máy âm dương với phân số để tìm về Nguyên số.
Số NGŨ trung ương của THÁI CỰC gồm Mồ Thổ và Kỷ Thổ là Tâm Địa, Tâm Điền chưa chia phân.
Thái cực tự phân ra LƯỠNG NGHI là Trời Đất. Trời nhẹ lên trên, Đất nặng xuống dưới.
Số Ngũ ở trên trước là TIÊN THIÊN
Số Ngũ ở dưới sau là HẬU THIÊN, cũng nói Vòng Trong (gốc) và Vòng Ngoài (ngọn) Hà Đồ đã biến thành Lạc Thơ, đã Sanh và Thành trọn vẹn, từ khởi điểm số 1 đến chung kết là 10. Trung tâm Nguyên Tử số 5, vòng khinh khí bao bọc số 10 (H 0 H), cộng là 15.
Hai phần khinh khí, một phần dưỡng khí, sẵn sàng ra đi sanh Thủy (đầu tiên)


             Sanh                                                     Thành

  1. Thiên Sanh Thủy         5+1 = 6     –       Địa thành chi
  2. Địa Sanh Hỏa             5+2 = 7     –       Thiên thành chi
  3. Thiên sanh Mộc          5+3 = 8     –       Địa thành chi
  4. Địa Sanh Kim             5+4 = 9     –       Thiên thành chi
  5. Thiên Sanh Thổ           5+5 = 10   –       Địa thành chi

                  Thiên sanh Địa thành, Địa sanh Thiên thành.

                                   5 số lẽ của Thiên Dương là   1+3+5+7+9 = 25
                                   5 số chẳn của Địa Âm là      2+4+6+8+10 = 30
                                   Thiên Địa hiệp nhau cộng tác là: 25+30 = 55
                           Số 55 của toàn thể, trừ 15 của Thái cực: 55 - 15  = còn lại là 40
                          Số 40 là số chung của Lưỡng Nghi. Chia hai ra đồng đều: 40:2 = 20
                                                 Dương:         1+3+7+9   =       20
                                                 Âm:             2+4+6+8   =       20
                                Số 5 trung ương (5 điểm đỏ, tâm thổ) ra đi để sanh và thành.
                                              Vòng trong        :        Thái Cực   -1-
                                               Vòng giữa          :        Lưỡng Nghi -2-
                                                Vòng ngoài        :        Tứ Tượng -4-
THỔ (số 5) ở giữa vì thể của nó Lớn, Đức nó bao dung được cả bốn hành kia. Tuy phân ra Ngũ hành mà kỳ thật là Một Âm, Một Dương vận dụng Cái ĐẠO.
Từ nguồn cội xuất phát, nói TRONG đi ra NGOÀI, hay là CAO xuống THẤP, ngoài ngọn trở về nói Ngoài vào Trong cũng là Thấp lên Cao, một nghĩa như nhau.
Lấy số 5 cộng với số của “tứ tượng” thành: (xem Hà Đồ)
Phía ĐÔNG 3 điểm đỏ của Thiếu Âm hiệp với hai điểm đen của Thiếu Dương phía NAM, nói Đông tam Nam nhị đồng thành Ngũ: 3+2=5
Phía BẮC  1 điểm đỏ của Thái Âm hiệp với 4 điểm đen của Thái Dương phía Tây, nói Bắc Nhứt Tây Tứ cộng thành ngũ:  1+4=5
Hai số NGŨ đủ đầy của Lưỡng Nghi hiệp về số NGŨ trung ương của Thái Cực thành “Một Nhà Xưa” trở về Nguyên Thể cũng nói là Bản Thể Thanh Tịnh của Tự Tâm nói tắt là BẢN TÂM.
Thầy mượn Tây Du mà dạy
Tề Thiên Đại Thánh là Ông Thánh lớn bằng Trời, là Linh Quang Chơn Tánh của Người, là phần trí huệ, thọ bẩm ư Tiên Thiên Hư Vô, nói là Trời Đất sanh thành chớ chẳng do Cha Mẹ mà ra.
         Điểm Tiểu Linh Quang ấy hạ trần, nương vào xác thịt để tiến hóa.
Con Trời, không quên căn cội, khi đã đúng sức lớn, đến tột cao, nắm quyền chúa tể của Quần Hầu, tượng trưng Bá Tánh lao chao, (Tâm viên ý mã) đó là Hầu Vương ở Hoa Quả Sơn, Thủy Liêm Động (Sơn Thủy một khối Thủy Hỏa) không màng danh lợi, rũ áo long bào, bất chấp gian lao, vượt trùng dương, tìm thấy học Đạo Trường Sanh (lìa tục, tầm Tiên, bội Trần hiệp giác) chẳng chấp nhận chư thuật, chư lưu của ngoại giáo. Đó là Tôn Hành Giả, một Lữ khách (hành giả) trên đường Cao Thượng (Tôn).
Khi đắc huyền công, luyện tập thuần thục 72 phép tánh đặt Ngộ Không, 7+2=9 là con số Dương Thần,
cực sáng(cực động).
Cực Sáng sanh Tối, rốt Động biến Tịnh, cái máy Biến Hóa. Đó là Lý Tự Nhiên của bánh xe phép.
Không nên tưởng Thầy quá hẹp hòi, chỉ biến hóa cho các bạn xem chơi, vỗ tay cười rộ, chạm đến sự Thanh tịnh của Bản Thể là Bồ Đề Tổ Sư rồi năn nỉ gì cũng không đặng, nhứt quyết phải bị đuổi ra đi, ở lại là chết. Ai vị nể giúp mình nắm bánh xe phép, không cho nó tuần hườn được. Nó phải sinh hoạt, ngưng một chỗ là máy chết.
         Khởi điểm ra đi, từ Đất lên Trời, lúc tột cao phải hạ xuống từ Trời tới Đất theo vòng lên xuống của Pháp Luân thường chuyển.
Linh Quang Chơn Tánh đủ thần thông là chỉ vào Con Người trưởng thành, Tinh Thần trí tuệ đầy đủ để cho mình sử dụng. Tùy mình lựa chọn lối đi của mình: trở về NGUYÊN hay thả xuôi dòng đời bị Thủy Triều lôi cuốn ra trầm luân khổ hải. “Tâm viên” chẳng thích giữ Ngựa Trời, canh chừng con Long Mã (chơn ý) với chức Bậc Mã Ôn cho thuận thiên lý, lại hiệp với tánh lao chao của Ý Mã, dấy lên xung thiên, làm loạn cung Trời (Tâm não) phá vỡ hội Bàn Đào, nghịch Thiên bội giác, vì đã hiệp trần, phải sa vào vô minh chịu trong ngục tù của vật dục nói là bị đè dưới ngũ hành sơn, tuy ló đầu ra ngoài, nghe thấy và biết hết nhưng vẫy vùng ra không khỏi.
Đã suy diễn vòng tuần hườn của lẽ Siêu Đọa, bây giờ trở lại ngay câu hỏi:

Ngộ Không dưới núi bấy nhiêu lâu
Tại sao lạ vậy con bày tỏ
Ngũ ngũ vuông tròn, lý tại đâu?

Mặc dù bạn đã rõ truyện Tây Du, thiết tưởng nên nhắc sơ lược nguyên nhân Tôn Hành Giả bị Phật Tổ dùng bàn tay chụp xuống, hóa Ngũ Hành Sơn chận đè như cái đèn trong thùng, như Bạch Hạc trong chậu úp. Cậy tài hay trí giỏi chẳng biết mình là kẻ đi đường là Hành Giả đang chịu định luật của vòng quanh ấy, dễ gì vượt ra khỏi càn khôn đặng.
Còn trong vòng tương đối của Lưỡng Nghi, hết sáng rồi tối, giác rồi mê, có sanh có tử, lên tột cao rồi xuống thấp, rồi lên rồi xuống phi giáng phi thăng. Chưa tự giải thoát ra khỏi vòng lẩn quẩn luân hồi chuyển biến mà muốn thắng Phật Tổ để ngự trên Ngai Vàng tuyệt đối tối cao sao đặng. Tâm có sanh ắt có diệt, thế nên Tôn Hành Giả cân đấu vân một cái rồi hạ xuống vừa la lớn: “Ta qua khỏi rồi”. Hành Giả đã lầm, bạn thấy chưa! Đừng tưởng có phép cân đấu vân cao hơn đằng vân mà đã Thành Công, ra khỏi bàn tay phép. Một cái bay vọt ấy chỉ từ Đông Độ đến Tây Phương, từ đất lên Trời là Bắc Nam của vòng tứ tượng mà thôi. Chưa vào hiệp Nhứt với trung ương của số NGŨ là nhà xưa, Gốc Cũ chỗ mình thụ bẩm để ra đi,
thiên biến vạn hóa.

Biên khu luân lạc từ bao
Làm sao biết đặng đường vào Trung dung.

           Ngó quanh ngó quất thấy năm cây cột đỏ như thịt trên ngọn có mây xanh (móng tay) bèn để tại cây      cột giữa tám chữ: “Tề Thiên Đại Thánh đáo thử nhứt du”. Để rồi lại đái xuống Gốc Cột thứ nhứt (Thiên nhứt sanh thủy) một vũng rồi cân đấu vân trở về, đinh ninh chắc mình thắng cuộc. Chừng Phật Tổ bảo cúi đầu xuống xem bàn tay, thấy rõ hàng chữ của mình đề tại ngón giữa, chỗ gốc ngón cáilòng bàn tay còn bọt nước đái.
         Phật Tổ quở: “Con khỉ đái vất, qua không khỏi bàn tay ta, còn múa mỏ”.
Bán tín bán nghi, như say như tĩnh của cơn mộng, Hành Giả vừa vọt lên đi xem lại, bị Như Lai lật úp bàn tay xuống, năm ngón tay hóa Ngũ Hành Sơn đè Hành Giả kẹt cứng, nằm ỳ bất động ...
Đúng 500 năm sau, mới được Tam Tạng (Tam Bửu hiệp Nhứt một vóc) đến gỡ bùa, giải thoát cho và cùng đi Tây Phương tìm Phật v.v...
Một bàn tay với năm ngón là Nhứt Hoa Ngũ diệp, đóa hoa với năm cành, bề lưng là Âm, bề bụng là Dương, một vóc mà hai phương diện.
oBàn tay Phật Tổ tượng trưng cho nhứt ngũ ở trung ương 1- 5 0=15,   1 5 0=15 (1+5=6 cũng là 6 của Địa thành) cái trụ cốt điều khiển tất cả vận hành của vũ trụ, gồm vòng trong là Tiên Thiên Hà Đồ, vòng ngoài là Hậu Thiên Lạc Thơ. Âm Dương làm nhân duyên lẫn nhau xoay chuyển, biến thiên để sanh thành tạo hóa, trung tâm bất động bất biến. Bàn tay lật ngửa là Dương trên Âm dưới, thọ ánh sáng ở trên chiếu xuống hơi lạnh của đất biến thành Dương khí vọt lên thượng từng Hành Giả lên Thiên Đình. Đến đây là cực dương tức nhiên động biến để sanh âm, nói Hành Giả thành quỷ, loạn thiên cung lấn Ngọc Đế, Âm tấn dương thối để rồi đúng kỳ hạn thuần âm, sanh dương trở lại. Lên tột cao, bàn tay đứng thẳng ở Chánh Nam, chỗ giáp mối âm dương hòa đồng. Âm tấn từ từ, bàn tay nghiêng xuống, âm cỏng trên lưng dương.
Do đó sức lạnh tăng gia mây biến thành nước rơi xuống hóa mưa, nói là Hành Giả đái vào lòng bàn tay của Phật Tổ, Vô Vi sanh hữu tướng (ma đến trụ xá). Đã nặng nề ô trược phải hạ lần đến sát mặt đất, bàn tay nằm sắp theo chiều ngang linh hồn bị xác thịt gồm ngũ hành chận đè trọn vẹn, chịu ảnh hưởng của Ngũ trược cũng là Ngũ Uẩn của thân tứ đại giả hiệp.
Một vóc hiệp năm cành đều đen tối của lưng bàn tay là bùa 6 chữ (1+5=6) “Ám Ma Ni Bác Di Hồng

Aum ma ni pad me hum) nghĩa là:
“Than ôi! Thượng Đế ở trong ta”
Thiên niên Kim thọ khai hoa dị
Nhứt nhập nhơn đô xuất thế nan.

Đó là bàn tay lật úp của Phật chụp đè Tôn Hành Giả.
Kiếp trần là Tiểu Châu thiên dùng số 100 để gọi.
Kiếp tu là Đại Châu thiên dùng số 1000 để nói 10 kiếp tròn đầy.
Ngũ Báu đã thành Ngũ trược, 5 trước đến 5 sau đủ nửa vòng, đúng hạn kỳ 500 năm, hoàn toàn thuần âm bàn tay chỉa ngay xuống theo chiều đứng dương âm đồng, khởi sự thay đổi sanh Dương, quay lần lên, bàn tay từ từ lật ngửa trở lại, nói Tôn Hành Giả được giải thoát ra khỏi Ngũ Hành Sơn, cái chậu lật ngửa cho Dương tấn, Bạch Hạc bay lên nhờ Phật Pháp qua trung gian của Huyền Trang Tam Tạng, Mây mù biến tan, lá bùa âm đã gỡ (thối âm phù)
         Bạn đã lĩnh hội máy tuần hườn của Bánh xe phép, tôi suy diễn, dẫn chứng biện minh bằng miệng cho bạn hiểu rõ hơn để kết luận.
Nếu biết được Mình bị kẹt trong vòng lẩn quẩn thì mau thọ Đạo Pháp thực hành để ra khỏi định luật của càn khôn tương đối về với Thái Cực tuyệt đối là trung tâm bất biến tượng trưng bởi số 10 tròn đầy, gồm số 1 (một) của Thái Cực và số 0 (không) của Vô Cực, một khối bất phân hóa do nghịch sanh trở lại Cội Nguồn đã vuông tròn Nhị Ngũ của sanh thành Trời tròn, Đất vuông.
Tròn là Hà Đồ, biến thể vuông là Lạc Thơ.
Vuông thành tròn là Lạc Thơ trở lại Hà Đồ, hoàn Nguyên Thể.
Điều này rất lạ lùng khó hiểu, ráng sức tư duy kỹ càng từng nước đi của Bàn Cơ Tiên, nhiệm mầu biến hóa. Vậy mới là Chơi Cờ Tiên, tính toán máy âm dương để hưởng rượu thánh do nguồn trí huệ là Vườn Đào của Vương Mẫu cung cấp, chớ đừng dại khờ điên loạn cho sự việc xảy ra:

Thiên cung náo loạn Thần Hầu
Trở day e nổi khó thâu phục về
Lỡ rồi bít lấp Cung Nê
Ngũ Hành vào đó sơn khê phải đành.
...................................

Không thể nói nhiều hơn trong phạm vi hẹp hòi của một bài luận giải, tôi xin hẹn với các bạn ở những dịp sau.
Sức già đã đuối, gom góp tàn hơi bàn qua việc khác.
Hiểu đặng rõ ràng lẽ Vô Vi của Đại Đạo, bạn không còn có ý nghĩ Trời thua Phật, Thượng Đế bị Tề Thiên cướp ngôi nhờ Phật Tổ cứu v.v...
    Số của Lạc Thơ (Trời đất đã chia) là 9 nói Trời CHÍN
    Số của Hà Đồ (duy nhứt tuyệt đối) là 10 nói là Phật MƯỜI.

Rõ ràng Trời Chín, Phật Mười
Trong vòng quanh quất ai bươi chỉ dùm
Ba lần thăng giáng từng tưng
Đờn reo, suối chảy Thỏ rừng chạy ra ...

          SỐ CỦA LẠC THƠ
             (Carré de Saturne)
        Số 5 ở giữa tượng Thái Cực:
1 ngậm        9 = 10 tượng Thái Dương
Tứ              2 ngậm 8 = 10 tượng Thiếu Âm
Tượng        3 ngậm 7 = 10 tượng Thiếu Dương
4 ngậm       6 = 10 tượng Thái Âm
1. Thiên Nhứt (1 điểm đỏ phía Bắc) sanh Thủy
     6. Địa lục (6 điểm đen) thành chi : 1+5=6
2. Địa Nhị (2 điểm đen phía Nam) sanh Hỏa
    7.Thiên thất (7 điểm đỏ) thành chi: 2+5=7
3. Thiên Tam (3 điểm đỏ phía Đông) sanh Mộc
    8.Địa Bát (8 điểm đen) thành chi: 3+5=8
4. Địa Tứ (4 điểm đen phía Tây) sanh Kim
    9.Thiên Cửu (9 điểm đỏ) thành chi: 4+5=9
5. Thiên Ngũ (5 điểm đỏ ở giữa) sanh Thổ
    10. Địa Thập (10 điểm đen vòng trong)
    Thành chi: 5+5=10


                                DƯƠNG SANH                                       ÂM KHẮC
                         1. Dương KIM sanh âm THUỶ              1. Âm THUỶ khắc Dương HOẢ
                         2. Dương THUỶ sanh âm MỘC             2. Âm HOẢ khắc Dương KIM
                         3. Dương MỘC sanh âm HOẢ               3. Âm KIM khắc Dương MỘC
                         4. Dương HOẢ sanh âm THỔ                4. Âm MỘC khắc Dương THỔ
                         5. Dương THỔ sanh âm KIM.                5.Âm THỔ khắc Dương THUỶ.
Lạc thơ có số 5 mà không có số 10 là vì ÂM THỔ thế loạn, chạy ra ngoài mà khắc Dương THUỶ.
Bạn đã biết Linh Quang Thổ Địa với Tôn Ngộ Không là Một, là Tánh Tâm con người gồm gốc ngọn là Hà Đồ Lạc Thơ. Phải làm sao trở về đồng nhứt với Trời Cha.
Như đã nói, Thầy rất chú trọng đến mầm non của Đạo (nhứt khí chơn dương).
Phân tách đàn nay bạn thấy sự đối chiếu rõ rệt:
         1) RA ĐI: bị kẹt vào Tứ Khổ, ngục tù trần gian,
         2) TRỞ VỀ: Giải thoát ra khỏi xiềng xích tham vọng. Dùng bốn trò nhỏ để làm con cờ luận đạo:        Tứ  tượng gồm âm dương quy nhứt 4+1=5, một khối HUỆ QUANG (sơ sanh) là rốt cuộc cũng nói Tứ Tổ Quy Gia chầu Huỳnh Đế ...

  1. Lộc đóng vai bị kẹt
  2. Ngọc Anh, còn thong thả ngoài vòng, giải bày cho rõ tại sao bị kẹt, biết khó mà cứ mãi xông vào, lủi thủi đi tới. Phải dừng bước, quày đầu tìm đường giải thoát.
  3. Đực tiêu biểu cho đường lối cao thượng đáng noi theo, làm được là vô ngần giá trị.
  4. Ánh Hồng: Lẽ ra phải đến trước, ít nữa cũng kịp thì cùng một chuyến đò với Đực, phải tự mình đoán xem lý do bê trể của mình.
  5. Không biết tự tâm mình, buộc lòng Thiên tánh là Linh Quang phải nhắc và vặn hỏi:

    Địa nói bao phen              Mà trò chẳng nhớ
    Đạo lành khai mở            Cố gắng bước mau
    Thử đoán tại sao              Tâm bào buồn khổ
    Giẫm chơn một chỗ         Cứ mãi chần chờ
    Lửng đửng lờ đờ             Thiên Minh sắp mất
    Bình tỉnh như như           Giao động từ từ
    Phát sanh đen tối            Đẩy thổi chơn đồng
    Rồi Ngọc Ánh Hồng        Cam lòng chịu hẹp
    Sinh vật lấn ép                Đè bẹp trên lưng
    Tương Tử coi chừng       Hạ trần mà khốn
    Khôn hồn chạy trốn       Tư tưởng vu vơ
    Tiến bước kịp giờ           Huệ Quang xuất hiện

Gọi Huệ Quang thủ vai sau chót là dụng ý ấy để kết cuộc, hạ màn của tuồng Đạo.
             Đồng tử Huệ Quang trình bày: Phước đức liên dây:

Nhờ đạo đức tiền căn tạo dựng (nhân)
Nên kiếp này đặng hứng Pháp duyên
Phước may gặp đặng Chơn truyền
Nhanh chơn cho kịp con Thuyền đón đưa.

Đã mệt lắm rồi nhưng vì các tuổi trẻ đầu xanh, tôi không thể không quan tâm đến như Linh Quang đã nói:

Giờ cũng đã khuya, Địa muốn về
Nhưng còn đôi chuyện chẳng cho xê ...

            Với cặp hai nam của Trời khuyết (thiếu dương) là cung LY, tôi nhắc Đức và Ánh Hồng xem lại       ngày đàn tất niên diễn ra giữa Chơn Tiên (chánh dương) Lam Thể Hòa với Tiên nhiễm tục (tà dương)   Hàn Tương Tử mà tôi đã giải kỹ.
         Tôi rất chú trọng đến con gà Trống Tơ, giống Cao Lãnh (bản lĩnh cao cường) vừa đúng sức, đủ lông đủ cựa để đưa vào một cuộc chiến đấu trường kỳ, nhiều khó khăn gây cấn là Đực.
         Thổ Địa đã đề ra trong bài thi bát cú đầy ẩn ý để tôi phân tách thêm giúp môn sinh thấy rõ.

Đến đây, Địa mới để lời phân
Với một hiền nhân, giữ họ TRẦN
Danh tộc Địa không nêu nói rõ
Chắc hiền cũng biết, biết lời chân ...

Đã mang họ TRẦN với cái tục danh ấy, Địa không nêu nói rõ, chắc hiền cũng biết lời chân thành (chơn ngôn) của Địa. Họ ấy lại tên ấy, nếu đệm thêm vào trung tâm một chữ “Rượn” làm chữ lót thì ôi thôi, hết nước nói được ... (cười, cười!)
Con heo lòng đã thành “trư nọc”, may thay trò đã tự mình làm nên hoạn (lại cái), để lót chữ Văn là: “Văn vật chỉ truyền người học hiểu” giúp phá trần thế muội mê, Trần nhơn đã thành Hiền nhơn, xứng đáng lời Địa gọi, tà dương nên chánh dương, bỏ nặng nề của Đực, Nhứt dương ở dưới bay lên trên đầu thành ĐỨC, (Thủ khảm điền ly) đã thấy biếnhóa của nhứt điểm ấy chưa? Nó lợi hại vô cùng: chúng sanh hay Phật đều do NÓ:

Chơn tánh LINH QUANG đừng sát hại
Phản hườn nhờ đó, đó mà thôi.
            Đã họchành:
Vậy hãy bạch trình cho Địa
Những gì Trò hiểu, nói cho vui.

Đực bạch đúng mức, tột hay 10 điểm trên 10, tôi hài lòng lắm.
         Tôi sẽ xin Thầy cho phép tôi đặt tên lại cho Đực là ĐỨC, đúng đạo lý.
Đã yên tâm (Địa) với Đực, quay qua Ánh Hồng, mặc dù muốn bỏ về cho rồi, nhưng không đành, phải nán lại, bảo thử  đoán biết tại sao chăng?
Khờ dại mê muội làm sao thấu hiểu được Tâm địa mình muốn gì, nó sẽ biến thiên dời đổi như thế nào?
      Thiên Minh Quang, Ngọc Ánh Hồng là một nghĩa, Thiên Ngọc là Ngọc lành, không tì vết, Minh Quang, Ánh Hồng là trong sáng chói rạng.
Có đúng thực thể của Bạch Ngọc và chơn dung của Hồng Quang để phản hồng vi Bạch chăng hay chỉ là danh từ suông của nhãn hiệu?
Hôm nay một lần nữa, Ánh Hồng phải đau mình, chịu hy sinh cho một cuộc giải phẫu, mổ xẻ để chữa bịnh ngặt nghèo là đau tim. Chúng ta đều biết Tâm bịnh là nguy hiểm nhứt cho sinh mạng mà đây là Lẽ Sống Linh Hồn. Chỉ một đường tơ kẻ tóc của khéo vụn mà con bịnh sống hay chết, một hành động khó khăn đòi hỏi kỹ thuật tinh vi của Bác Sĩ. Hiện giờ mầy đang đứng chàng hảng tại ranh giới ấy, cái nữa Thiên Đàng, địa ngục hoặc là sanh hay tử do mầy rút chơn bên này bỏ qua bên kia hay trái lại.
Mầy đã làm gì, đã ló mòi gì mà dư luận đều có ý nghĩ không hay đối với mày và sắp lên án mầy khởi sự ra khỏi Động Tiên để hoàn tục như Tôn Hành Giả lìa cội Bồ Đề để rơi rụng trở về đất cũ là Thủy Liêm Động rồi chịu quả nhân nhân quả nối chuyền vô tận.
Không có cái gì là ngẫu nhiên, nó đều có nguyên nhân cả.
Khởi sự tâm trung, xuất trình ư ngoại, cái bên trong cõi lòng, người bàng quang không thấy được nhưng khi nó thành hình mắt phàm căn cứ theo đó mà xét đoán.
Trước kia khi mới 15 tuổi, tuổi trăng tròn mầy xuống tóc theo lẽ cầu đạo (cạo đầu). Đến nay 6, 7 năm qua, miếng tâm điền lại thấy cỏ mọc, tóc đã xanh um. Trạng thái khác thường ấy khiến bị phê phán. Cõi lòng ra sao, ai nào có biết, chỉ Thầy là Lương Tâm rõ mà thôi. Mầy lại vô tình hay hữu ý đã tự phô bày cho thấy tư tưởng của mình bằng cách trình ra bài thi Tiên đã khen một Ngọc Nữ kia, cũng đồng là Ngọc với mầy mà Huệ hay Hương nào đó.
Thật là xứng tuồng đào kép Ngọc (H) đều là Tiên non hết thảy, đúng như lời tao nói trước kia chưa? Gần nhau là sanh cảm, nam nữ cọ cọ bất thân, câu chữ nho hòn, ba rọi mà xác lý nghĩa. Mầy đã tự thú nhận như Hàn Tương Tử khi báo tin.
Tiếp tục cầu đàn “ Tiên giáng thế” và lập lại:

Tiên cô hạ thế, chẳng hề sai
Ngày xưa chán tục đi tìm đạo
Tuổi trẻ sao mà chịu đắng cay
Tách thế đi tu, ôi tiếc rẽ!
Tu chi cho cực, lắm chông gai!

               Mầy thì tiếc cho người ta, nhưng có được hòa mình chấp thuận hay bị gạt ngang như Hà Tiên Cô tạt gáo nước lạnh vào Tương Tử!

Ta sao thây kệ, ai cần nói
Còn nói tiếc ôi, thật lắm tài ...

Và mầy có bị xí xóa hay nguýt gì không, tao chẳng cần biết đến, việc đã qua cho nó tuốt luốt vào dĩ vãng.
Điều quan trọng là hiện giờ mầy đã khổ, tâm sanh phiền não, có ai biết được gì nếu đàn trước Thầy không nêu ra lời nhắn gởi, trấn an và che chở cho con dại, nay lại có Thổ Địa là TÂM, tỏ lòng tin tưởng nơi sự thành tựu ý nguyện của mầy, ban đầu gọi hiền, sau gọi Con và nhắc nhở buổi ban sơ ... ấy làm sao hiểu hết ý bề trên được.
Ý nguyện của mầy là gì đây, hãy nói ra? Ý có chơn có giả, Tâm có chánh có tà. Mầy muốn vào ngục tù hay được giải thoát cũng đều thành tựu, siêu đọa nguồn gốc do Tâm ý, Thân chỉ là kẻ thừa hành.
Thổ Địa đã nhấn mạnh: Chắc vậy hay chăng? Phải đúng lời nói, chớ không nói một nơi nghĩ một ngã.
Run gân chưa? Kẻ cầm cân không tư vị được.
Thầy dụng ý nhắc nhở vì đã giao phó mầy cho tao làm cha đỡ đầu. Mầy đã sung sướng chấp nhận nhập Gia Đình Đạo vì gọi các con tao là Anh là Chi rồi. Cha có bổn phận chỉ dạy tường tận, từng li từng tí, chớ NÊN hay HƯ là do con, Cha Trời cha thế cũng vậy, nào muốn cho con mình phải khổ.
            Con người được ban cho quyền tự do sanh sống, tự do tư tưởng, hành động rồi do đó gặt quả của Lý Tự Nhiên ấy.
Lo cho mầy lạm dụng tự do theo bản năng ấu trĩ và bước thêm một bước nữa là bị Thủy Tinh sát tử nên Thầy dụng ý mượn tay tao giúp điều trị cho mầy càng sớm càng hay. “Giờ đã điểm” Âm Thổ thế loạn phóng ra ngoài sanh Thủy rồi mầy đái bậy là chết. Mầy chưa tin trọn hãy hỏi Tư Hoa là Đạo Huynh của mầy đã gặp những gì, và đã làm những gì trên con đường duy nhứt được bố trí in khuôn rập với bất cứ ai, có đi qua đều chứng thật.
         Tại sao Thầy buộc nó giải nghĩa lục dục thất tình và do  đâu mà ra?

Nhỏ thì lên đài với nhỏ cho cân sức:
Đồng tử chiến đấu với nữ sinh.
Lớn thì cho so tài với nữ giáo.

Ngọc Ánh Hồng đã chép thi khen Ngọc Nữ để dành trong túi hậu thiên đại, Dũng Kim Quang hạ chiến thơ cho Chưởng Giáo, đút vào áo gối.
Phải chăng nói cũng như mầy, đồng vướng một chướng ngại vật?
Dũng Kim Quang đã điên đảo, bị tấn công tơi bời, bao nhiêu bửu bối sở hữu tung ra đều bị thâu ráo trọi. Đều là đồng tử, đồng chí với nhau mầy lén hỏi nó coi nhờ đâu mà thoát chết? Có phải nhờ huyền công của Bồ Đề sư chỉ dạy và do Linh Quang mang Cửu Long Thần Hỏa Trao đến hộ độ ngầm chăng? Đã quyết
chiến đấu thì nhứt định phải gặp đối thủ, nếu độc diễn thiếu yếu tố Phật Yêu thì đường Đạo cũng vô nghĩa.
Tội nghiệp cho mầy, trơ cùi bắp, không một tấc sắt trong tay lại muốn thử sức với Tru tiên kiếm. Tao có bổn phận can ngăn mầy không nên mạo hiểm đấu cờ với Nữ Chúa, chớ đã nhập cuộc rồi, Thiên luật bắt buộc không cho một Sư Phụ nào mó tay vào trợ lực khi chưa kết cuộc dứt khoát.
Hôm nay tao đóng vai Bác sĩ chuyên môn, giải phẫu cho mầy, Con Bịnh đớn đau chòi đạp chửi rủa mặc tình, với lương tâm nhà nghề tao vui cười lãnh hết. Đã làm ơn phải cho trót, tao lãnh  luôn nhiệm vụ Biện Hộ sư không công, không tiền thù lao, giúp cho mầy trắng án luôn nhưng với điều kiện “phụ cấp tòng sư” Thầy cải mới ra sức. Trị bịnh rất khó vì tuy thầy hay thuốc giỏi nhưng bịnh nhơn phải tự chữa theo huấn thị của Bác Sĩ mới được, sai suyển một tí là nguy hại Tánh Mạng, chớ làm Thầy Kiện có khó gì, nhứt là với Ông DR.JEAN DE LABATIE từ Tây Phương Pháp Quốc qua Đông độ giáo chỉ này với mấy mươi năm kinh nghiệm. Mầy tin đi! Tao là Trí Thông Luật Sư, biết rõ thuận nghịch, sanh hườn, thì muốn nói ngược nói xuôi gì cũng đặng, hễ đấu LÝ là chắc ăn, lo chi mầy không trắng án. Cười cười! Mầy lắng tai nghe tao biện hộ sơ sài cho mầy: “Thưa quý thẩm phán và Chánh Án Tam giáo tòa! Thân chủ của tôi là Ngọc Ánh Hồng bị lên án một cách vu vơ chỉ vì dư luận hiểu lầm hành động. Nhờ có tiền duyên, thân chủ của tôi ý thức được toàn thân do lòng dục mà có, phải chịu ảnh hưởng nặng nề của huyết thống nên đã khai quang tất cả giống xấu mọc trên tâm điền ấy và dày công gội rửa không cho một bợn nhơ dính dáng. Trong sáu năm khổ nhọc, nhổ lượm từ gốc cỏ rễ cây, diệt trừ từng con kiến, bọ. Hôm nay miếng đất đã sẵn sàng, bản thể đã tốt đẹp, ngày giờ chờ đợi đã đến nhờ Con Tạo vần xoay, thân chủ tôi đã gặp được giống quý, đem đặt lên miếng đất màu mỡ, nhiều năng xuất, mạnh mẽ nay mọng đâm chồi.
       Trước kia là tóc máu của mẹ sanh mà bạn tác giả khôi hài chế diễu gọi là tóc đáp. Chẳng muốn cho thứ xấu xí đè nặng trên đầu mãn kiếp, thân chủ tôi đã biến đổi tánh chất lăng quăng le hoe của nó và ngày nay tuy cũng là tóc nhưng là Tóc Mây suôn đuột, láng mướt đen ô do huyền cơ diệu phát nói là huyền phát (tóc đen).
           Tại thiếu chuyên môn, quần chúng không phân biệt được Chanh, Hạnh, với quít đường, cam mật, thể tuy giống nhau nhưng tánh chất ngọt, chua cách xa một trời một vực.
                Hiện giờ tôi xin Quý Tòa gác lại, tạm xếp hồ sơ vì sư nói sư phải, vãi nói vãi hay, chờ thời gian hình thành, hột đã nên trái mới đủ yếu tố, chứng bằng sẽ đem ra phán quyết chung thân
Ngon lành chưa? Mày chịu ôm cặp bước theo gót tao chứ?
Việc của mầy tuy tạm xong, còn chờ thời gian trả lời dứt khoát, tao mong mỏi mày đừng làm cho tao mang tiếng cãi bướng và mắc tội “trợ nhơn vi phi” của kinh Cảm Ứng.
         Để dẫn chứng, tao kể miệng cho mày nghe câu chuyện “đám cưới tinh thần” do cặp trời con: Trai và gái của Thầy Mẹ là DƯƠNG MINH ĐỨC và  PHƯƠNG HỒNG LẠC để mày suy nghiệm: “Tiền xa ký phúc, hậu xa giái chi”, nói một đường làm một ngã, Việc là đã chứng minh rõ rệt. Hôm nay, mới cách đây chưa đầy ba tháng, mà đám cưới tinh thần đã hình thành “đám cưới xác thịt” và Dương Đức đã hóa Dương Đực và phương pháp Hồng Lạc đã lật ngược biến Chơn thành Vọng, Lạc vào Hồng trần hưởng thụ vui đời của giả tạo hóa. Nay mai đây sẽ kết phàm thai, thay vì thánh thể. Tao lặp lại lời Thầy nhắn gởi: “Con đừng buồn phiền dù ai không biết nhưng con cứ quả quyết rằng Thầy biết Tâm con. Như thế có an lòng hay chăng?”
                Chê khen miệng người, hay dở Lòng Ta, đừng dễ duôi, Trời cao biết hết. Tại sao không sợ Trời, lại sợ dư luận?
         Tại không sống với nội tâm mà sống theo ngoại cảnh, cam làm nô lệ cho dư luận, cầu tiếng khen, sợ lời chê, không đếm xỉa gì đến thưởng phạt của Lương Tâm, Chúa Tể Tiên Thiên Địa, hãy ngheghi nhớ!

                                                                     Trở Lại Mục Lục