NGUYÊN DO VIỆC TÁI LẬP
CHIẾU MINH ĐÀN Chịu luật “Biến Thiên” không có cái gì ở trần gian tương đối giữ vững mãi mãi được một vị trí.
Chiếu Minh Đàn Cái Vồn được thành lập năm 1926 (Bính Dần) sáng rỡ huy hoàng một thời gian 19 năm rồi
bị ngọn lửa chiến tranh huỷ hoại hoàn toàn đúng lời tiên tri của Thánh Giáo, năm Ất Dậu (1945) tượng trưng hoàng hôn:
Đến một ngày, Tây Bắc phân chia
Sợ e mối đạo đầm đìa
Lư hương một đống tượng kia chẳng còn!
Vầng Dương phải chìm đi một thời gian trong đen tối...Do máy tuần huờn vận chuyển, đã đến lúc Bình Minh, bóng Kim Ô tái xuất, tiếng chuông báo hiệu vang rền, đánh thức nhơn loài,
bừng tĩnh thoát ra cơn ác mộng.
Khơi màn từ ngày 18 tháng 2 năm Canh Tuất (1970), ngày vía cựu Chủ Đàn và khai màn từ ngày mồng 1 tháng 5 theo lịnh Giáo Chủ Ngôi Hai, Chiếu Minh Đàn được tái lập để mở một giai đoạn mới giúp cho môn đồ tiến bước về nguyên và đưa linh căn phúc tử vào cửa đạo.
Tuất thời, ngày 18 tháng 2 năm Canh Tuất VÍA HUỆ MẠNG KIM TIÊN
*** VÂN HÀ ĐỒNG TỬ Thi
Động bích Vân du cảnh rỡ ràng
Đào nguyên Hà thuỷ vẻ nghiêm trang
Muốn về Đồng nhứt lo dồi luyện
Mạng thế Tử quy đến cảnh nhàn
Tiểu Thánh chào chung đàn nam nữ, giờ nay Tiểu Thánh lai đàn báo tin có Ơn Trên lai phàm, vậy chư hiền thành tâm tiếp rước, Tiểu Thánh hộ đàn, thăng.
Thi H Tuồng đời hát mãi có cùng đâu U Cõi thế u minh lắm cảnh sầu Ê Nhìn thấy ê hề nhiều nỗi khổ
. Thương đời nặng nợ khổ thâm bâu! Thi M Trí phàm mờ tối bởi không tu A Tứ đổ a vô chịu ám mù N Khó lắm anh hào chưa thoát khỏi G Đuốc lành rê đến vẹt mờ lu.
. Nhớ đừng nặng dạ vì chung đỉnh K Học hiểu ca tiên luyện pháp tu I Giáo huấn y hành đừng nại khó M Tự nhiên mờ tối hết, vì tu Thi T Nhìn đời tê tái tấm lòng Tiên I Phải biết y theo lẽ Thánh Hiền Ê Đâu phải ê hề nhiều thống khổ N Có đâu anh kiệt chịu ưu phiền
Đàn hầu có biết ta là ai chăng?
Bạch: tìm không ra
Hãy kiếm khoán tâm của ba bài thi xưng danh
Bạch: Huệ Mạng Kim Tiên
Thi
Lai phàm mừng hết tử cùng tôn
Hiệp mặt nơi đây lễ Chí Tôn
Khẩn nguyện vong linh lai thế tục
Chứng lòng mỗi trẻ tử cùng tôn ***
Nhọc lòng đạo hữu chẳng nài công
Tựu đến nơi đây cũng tốt lòng
Phước báu nhuận ban cho tất cả
Khỏe nhàn mát mẻ cả nơi lòng Hựu
Về đến nơi đây để chỉ bày
Những điều lợi ích, những điều hay
Cháu con ráng nhớ làm theo đó
Phước đức ngày sau sẽ hưởng hoài
Tu niệm ráng gìn dù rất ít
Lạt chay dưa muối có đôi ngày
Cực lòng nhưng khỏe ngày sau lắm
Hưởng phước cháu con gắng giữ hoài! ***
Trên đời quý báu ấy lương nhơn
Danh vọng làm sao có thể hơn
Tích đức thiện lành bền bỉ mãi
Phước hồng để lại chẳng gì hơn! Thi Bài
Đêm thanh vắng Cha lai gia nội,
Để đôi lời nguồn cội chỉ phân
Những điều lợi ích chánh chân,
Mong sao con trẻ ân cần hành y
Đời giả tạm có gì vững chắc,
Nhưng ở đời sắp đặt tuỳ theo
Làm sao khỏi cảnh túng nghèo,
Dư ra, đạo đức ráng trèo ráng phăng
“Nhờ phước đức tiền căn tạo dựng,
Nên kiếp nầy đặng hứng phước duyên”
Sống hơn thiên hạ tại tiền,
Ráng lo tích đức là giềng hậu lai.
Vậy tử tôn ngày nay suy xét,
Để trau dồi cạo quét phàm tâm
Để cho khỏi cảnh lạc lầm,
Để cho đến cõi xa xăm thanh nhàn
Ở thế gian dù nhàn cho mấy
Cũng không bằng nơi ấy Thiên Thai
Ngày Tiên tháng Phật rộng dài,
Vững bền muôn thuở khỏi hoài hư vong
Nơi thế sự trần hồng tạm giả
Có rồi không hư rã chẳng bền
Thân người mà chẳng toàn nên
Có ngày cũng phải ra nền hoang vu
Hiểu thế sự rồi tu chẳng tiếc
Hưởng sự đời dạ quyết lo tu
Đắp bồi phước đức muôn thu
Hưởng nhờ âm chất nhờ tu thuở nầy
Học Đạo Lý của Thầy truyền để,
Hiểu cho tường cội rễ phàm gian
Rồi mình khỏi bị mê man,
Bởi đời cám dỗ vào hàng lao lung
Cư xử đời phải tùng theo thế,
Nhưng lòng tu đừng để lãng xao
Quyết tâm đạo đức xen vào
Rảnh rồi nợ thế thẳng vào Đạo Tiên
Phước đức lắm hiện tiền gặp đạo
Nếu không màng học đạo làm nhơn
Đến chừng sau lại quày chơn
Tìm mà chẳng gặp như đờn không dây
Khuyên tất cả lời nầy sau chót
Ráng gìn tâm bòn mót đạo chơn
Nhà ta đạo đức huy huờn
Giác tâm tìm lại gặp cơn thuận chiều
Nay Cha để đôi điều chỉ dạy
Rồi phải về lo lại phận Cha
Nằm trong giới hạn Tiên gia
Giúp vùa Đại Đạo tạo đà phước duyên
Thôi từ giã đàn tiền đạo hữu
Để trở về đầy đủ luyện trau
Mong rằng đạo hữu đạo cao
Phước lành trời rưới, rưới vào tâm can.
Vậy ta từ giã trung đàn, cha từ giã các con, ông giã từ các cháu.
Ngâm
Mãn giờ điển dứt về Tiên
Giã từ tất cả đàn tiền ta thăng.
Bàn: Nhơn dịp ngày kỷ niệm, có đông đủ các cháu, “Ông” giáng cơ theo lời van vái, để nhắc nhở, dạy phải cố gắng noi theo gương trước, tiếp tục nối chí tu hành vì có duyên phước nên được xuất thân trong gia đình đạo đức huy hoàng, vừa xử thế vừa phải tu thân. Nếu không màng đến Đại Đạo cứ theo đuổi thế gian chi đạo, khi tĩnh ngộ muốn tìm cũng đã muộn.
Đã sẵn dành cho đầy đủ phương tiện, có giác tâm tầm đạo thì rất thuận chiều.
Trên 25 năm vắng tiếng, nay lần thứ nhất con cháu được nghe lại lời thiết tha dạy dỗ của (Ông):
Đã- Sống hơn Thiên Hạ tại tiền
Phải- Ráng lo Tích Đức là giềng Hậu Lai.
Người: Hữu phước! Giáo truyền thâm nhập trí
Kẻ vô phần! Chủ dạy chẳng lo ghi
Ai có tai để nghe, Hãy Nghe!!!
Ngọ Thời, Ngày mùng 01 tháng 05 năm Canh Tuất 1970
ĐÀN BẤT THƯỜNG
CHIẾU MINH ĐÀN
P.Đ: Thiên Huyền tâm
Đ.T: Ngọc Ánh Hồng
Do lịnh Thầy chuyển tại Cần Thơ (Bùi Hà Thanh vắng mặt, được cho hay về gấp đến nhà 10 giờ trưa, cấp tốc lập đàn cơ đúng Ngọ thời).
HUỆ MẠNG KIM TIÊN Thi Huệ Mạng giờ nay đến trước đàn Kim Tiên lai đáo cõi phàm gian
Phụng thừa sắc lịnh về đây báo
Tiếp lịnh nghiêm trang tâm phải an
Huệ Mạng Kim Tiên chào chung đàn nội tử tôn, giờ nay Ngã được lịnh đến báo tin có Giáo Chủ Ngôi Hai lâm đàn dạy đạo, vậy chư phận sự thủ lễ tiếp nghinh, Ngã hộ đàn, xuất ngoại, Thăng. *********
Tiếp Điển
NGÔI HAI GIÁO CHỦ
Thầy đại hỷ mừng chung chư đệ tử Thi
Trần gian Ngôi báu đáng mà chi
Đời đạo Hai nơi khéo chọn đi
Hữu phước Giáo truyền thâm nhập trí
Vô phần Chủ dạy chẳng lo ghi
(Dâng bồ đào tửu) Thi
Chứng chiếu lễ dâng của các con
Lòng thành thấu đến chốn Bồng Non
Giá lâm lòng thấy thương nhiều lắm
Chỉ dạy đường chơn giúp các con
Mãnh tiến rồi đây con sẽ đến
Hà Đồ nắm sẵn đỏ như son
Lo chi Bạch Ngọc không về đặng
Tánh Mạng luyện trau quả đã tròn
Vậy trước khi phân bày thêm sự việc, Thầy muốn nhắc lại thuở xa xưa đã cùng “Hà Thanh chung sống”. Vậy Thầy miễn lễ các con an tọa, riêng Hà Thanh hãy luận đạo cùng Thầy. Điển ký hãy viết kỹ những đoạn đối đáp sau đây: (đem máy ghi âm mau!)
Thi Vấn Bùi ngùi thương trẻ sống nhân gian Hà xứ hà nơi đến Niết Bàn Thanh trược nan phân sao thoát tục Nghe chăng đệ tử, hãy khai màn!
Hà Thanh bạch: bạch Sư Phụ, con vẫn biết ý Thầy, trước khi vấn đáp Thầy đã nhắc cho con nhớ chuyện “xa xưa” Thầy và con chung sống, để con ý thức cái “Bản Lai” xa xưa đây không phải là lúc cùng Thầy chung sống trong cuộc Thánh du xứ Cao Miên và Nam Việt cách đây hơn 40 năm. Đã nói kiếp trăm năm như lửa đá nháng, cửa sổ ngựa qua, thì khoảng thời gian 40 năm của ngày trần có nghĩa lý gì mà gọi xa xưa. Xa xưa đây là chỉ cái “Nguyên Thủy” lúc Thầy còn chung khối.
Khi Linh Hồn còn tách rời Nguồn Cội hạ trần vào trường đời chịu khổ, học hỏi để tiến hóa thì Đấng Cha Lành đã biết trước thân phận của con sẽ ra sao rồi, với câu đầu: “Bùi ngùi thương trẻ sống nhân gian”, đã phô bày tâm tư ấy.
Nhơn loại là con của Trời, Trời cũng như Phật là khối “Đại Linh Quang” là duy nhất tuyệt đối, từ chỗ Tông Nguyên Duy Nhứt, tiểu linh quang hạ trần nhập vào xác thịt, chịu luật tương đối của càn khôn. Nhứt đã sanh nhị, phải sống trong cảnh thanh trược hỗn hợp của nhị nguyên, muôn trùng đau khổ, bảy nổi ba chìm, vào tử ra sanh, mạng tợ tơ mành, vui buồn lẫn lộn.
Thầy dùng tên Hà Thanh của con để ám chỉ cái Nguồn Nước thuần tinh khiết bạch, cái Bản Thể Thanh Tịnh ấy, lìa bản nguyên ra đi, chẳng còn vóc Tiên Thiên cũ mà đã hóa ra Hậu Thiên hữu hình, hữu vô một khối, thanh trược một bầu, không phân nỗi thì làm sao thoát tục! Hiểu rõ và phân tách khối bất phân, chánh tà, chơn ngụy ấy là việc rất khó, tri kiến của Bồ Tát còn chưa kham, phải là Phật mới giải quyết nỗi.
Muốn thoát tục trở về nơi hoàn toàn trong sạch, phải khởi sự từ chỗ thanh trược hỗn hợp mà tu hành cho đến khử trược tồn sanh, hoàn toàn thuần nhứt, tâm hoàn toàn yên tịnh đại định
gọi là Minh Tâm, Tâm minh là Niết Bàn tịnh thổ, cũng gọi là Bạch Ngọc Kinh.
Trong chỗ Minh Tâm xuất hiện Tánh Phật sáng rỡ là Kiến Tánh.
Biết đặng Hà xứ lai thì rõ Hà xứ khứ, Niết Bàn là nơi phát xuất mà cũng là chỗ quy hồi.
Linh hồn khôn ngoan không quên căn cội, có đi có về, mượn chỗ trần gian tương đối, hiệp giác bội trần trở về bản nguyên tuyệt đối.
Kẻ dạy khờ ngu muội bám chặt chỗ thanh trược hỗn hợp, bị kẹt trong vòng lẩn quẩn của tử sanh, phải chịu quả nhân, nhân quả, không sao đắc Nhứt Pháp.
Khoán thủ bài thi thấy bốn chữ: Bùi Hà Thanh Nghe. Ý của Thầy mượn tên con mà nói, lấy con mà làm gương, “cậy đứa con đã Thấy Biết khai thị cho các con chưa Kiến Tri”, Con vắn tắt để vén màn bí mật theo lời Thầy dạy: “Hãy Khai Màn”.
Lành thay! Lành thay! Vậy tiếp theo:
Thi vấn
Tại sao nhơn loại phải cần tu?
Cõi thế ra sao phải vẹt mù?
Tiền bạc lợi danh nhiều vui toại
Sao mà còn phải biểu lo tu?
Trả lời: Bạch sư phụ, từ chỗ Đại Khối tách rời xuống hồng trần, tiểu linh quang nhập vào xác thịt như Đại Thánh Tề Thiên bị dằn dưới Ngũ Hành Sơn chịu ảnh hưởng nặng nề của vật chất làm mờ dần Huệ Giác, Bồ Đề Bát Nhã chẳng còn. Do đó vô minh tràn ngập, sóng dập gió dồi, bềnh bồng trôi giạt trong bể khổ, không bến không bờ, phó mặc cho định mạng đến đâu hay đó.
Đã vô minh thì nhứt định phải bị lôi cuốn theo vật dục, vì sức hấp dẫn mãnh liệt của nó làm bế tắc Thiên Lý, linh quang lu mờ hư khuyết như ngọn đèn leo lét sắp tắt, thần lực đâu còn để chống chỏi với hải triều, cuồng phong giông tố.
Vì thế nhân loại phải cần tu
Tu là bồi bổ cái khuyết, sửa chữa cái hư, Linh Quang phải tròn đầy trở lại như cũ, ngọn Nhiên Đăng trở thành Cổ Phật, Cổ Phật là ông Phật xưa nhứt, là nguồn sáng của linh hồn.
Nguồn gốc là Toàn Giác, sa vào hồng trần ô trược biến thành nửa tối nửa sáng, một khối Phật-Yêu. Đó là
Tại sao nhơn loại phải cần Tu”
Cõi Thế Ra Sao Phải Vẹt Mù?
Nhân loại phải sống với giả tâm tục tánh phải sa vào ngục tù u minh của ngoại cảnh, bị vật thể ngăn che, màn đen bít mắt lấp tai phải đui điếc khác nào kẻ lạc loài trong rừng sâu đêm tối không biết đường lối mà ra, phải nhờ ánh sáng của mặt trăng rọi vào, ngọn Thiên Đăng xuất hiện đưa đường, hướng dẫn ra khỏi rừng u minh của chúng- sinh- tính.
Khi ra khỏi nơi đó rồi mới thụ hưởng được ánh thái dương xán lạn mà nảy nở theo chiều hướng đó để trở về Quê Cha Đất Tổ, gọi là dùng trí huệ soi phá vô minh, cũng nói:
Dọn gai gốc tìm ra đường sáng
Vẹt mây mù lố rạng trời sanh.
Câu thứ ba, thứ tư:
Tiền bạc lợi danh nhiều vui toại,
Sao mà còn phải Biểu Lo Tu?
Người đời có kẻ ngu, người trí vì:
“Tâm hồn có Giác có Mê,
Giác theo đường chánh, Mê về nẻo cong”.
Tiền bạc lợi danh, quyền hành chung đỉnh là miếng mồi ngon để câu người mê thế, họ sẽ chết với mọi vui thích ở cõi đời, vật chất và chỉ tìm hạnh phúc giả tạm ấy, đến hơi thở cuối cùng, vì lầm tưởng đó là Hạnh Phúc chơn thật.
Trái lại, bực Nguyên Nhân đã giác ngộ, chỉ ước ao hoài bảo có một việc là: đồng nhứt với cội nguồn thuần tịnh trong sạch. Họ không quan tâm đến mọi hình thức bề ngoài của mọi vật, họ không chạy theo ảo vọng, quyết sống với Chơn Tâm, lo thực hiện Chơn Ngã, họ lãnh đạm hoàn toàn đối với lợi danh, quyền hành, tình dục, trước sự hân hoan hay khổ não mà những cái ấy có thể đem đến cho họ hoặc có thể cảm nhiễm họ.
Họ tự tu, tự hành để tự giải thoát ra khỏi xiềng xích của ngục tù vô minh ấy theo sự dạy dỗ hướng dẫn của Bậc Đại Thiện Tri Thức của Thần, Tiên, Trời, Phật.
Vì thương người đời mê muội, sa vào sự cám dỗ của lợi danh, nên nhọc đến các Đấng Thiêng Liêng phải hạ trần dạy dỗ phá mê về giác.
Chữ Tu tuy có một, song có nhiều cách quan niệm, vì có nhiều Duyên, kẻ đại căn quan niệm đúng đường lối duy nhất “Trực Chỉ Tây Quy”,
các phương tiện chậm chạp khác chỉ giúp cho người hạ trí “Tuần Tự Nhi Tiến”.
Với mấy tiếng “Biểu Lo Tu” của câu chót làm con nhớ lại rõ ràng cử chỉ và giọng nói của Thầy lúc cùng nhau du lịch trên Đế Thiên Đế Thích cách đây 43 năm: “Mầy có phước lớn! Tao biểu phải lo tu! Hiện giờ mầy còn nhỏ, tao không muốn tuyệt đường sanh sản của mầy, hơn nữa mầy là công tử, trên ô tô, dưới ca nô, để cho mầy làm nhơn Tiên cho thỏa thích, ngày kia đủ mùi, không còn tham luyến mến tiếc gì nữa, con trai có, con gái có, thì đủ rồi... Nhớ kỹ đừng để quá 35 tuổi nhé! Hôm nay với hai câu sau và nhứt là mấy tiếng “biểu lo tu” làm cho con nhớ Thầy vô ngần và nghẹn ngào không nói được nữa...
Hay lắm! Lời bạch trình thật đủ đầy lý nghĩa.
Vậy tiếp theo đây là sự việc cần kíp phải thi hành, theo sự nhận xét của Thầy thì nơi đây rất cần được chỉnh trang dìu dẫn những linh căn hữu phước, từ nay Chiếu Minh Đàn được thiết lập mỗi tháng một kỳ đàn cơ vào sơ nhứt nhựt để có phương tiện mở rộng kiến thức môn sanh.
Thiết tưởng khỏi cần cũng đặng “nơi nào có Bùi Hà Thanh nơi đó như có Thầy”, nhưng để giúp thêm phương tiện, Thầy cho lịnh chấn chỉnh lại Đàn Chiếu Minh, về việc tập Tử Đồng, tưởng Thầy cũng cần hỏi lại ý nghĩ của sĩ hiền ra sao, bạch Thầy tường!
Bạch Sư Phụ!
Nghi lễ cung hiến, cách thờ phượng, cầu đàn cơ bút.v.v... đều thuộc về hình thức của tôn giáo, ngoài lề Đại Đạo, do Thầy khiến cái Chiếu Minh Đàn ngày trước đã bị ngọn lửa chiến tranh hủy hoại hoàn toàn. Từ ấy con khỏi bận với hữu hình cơ đạo để lo bề Tự Giác.
Như Thầy đã nói rành mạch, với con hiện giờ khỏi cần đến tôn giáo vì Thầy vẫn thực tại hiện hữu nơi con, nhưng phải nương tôn giáo để giúp đỡ tín đồ và dìu dắt quần sanh từ sông mê đến bờ giác.
Đã Tự Giác phải Giác Tha để trả nợ pháp, Lục Tổ dạy:
“Dục nghĩ hóa tha nhơn,
Tự tu hữu phương tiện”
Con đã đầy đủ phương tiện vô vi, Thầy dạy tái thiết Chiếu Minh Đàn nơi đây để thêm phương tiện hữu hình.
Con cúi đầu khâm tuân, nhưng nhờ Thầy ám trợ mọi mặt cho có kết quả mỹ mãn, về việc tập đồng tử, con cũng đã nghĩ đến và lo liệu rồi. Để giúp mở rộng kiến thức cho người hữu phước đi đến trau đạo và người Hành Đạo đến chỗ sâu thâm huyền diệu, con không nài nhọc khó, tuy nhiên con cầu xin Thầy lựa chọn kẻ có đại căn thật tâm cầu đạo, đưa đến giao phó cho con, ngoài ra người khác họ sẽ làm phiền rộn con, phí ngày giờ quý báu mà không đem lại lợi ích gì hết.
Thầy hoan hỷ nhận lời bạch trình của môn đệ
Thi Bài
Giờ lành ngự bút đàn trung
Đôi lời chỉ giáo toàn chung các hiền
Làm sao chống con thuyền Bát Nhã
Bát Nhã đây Thầy tả Vô Vi
Hiểu rành đường lối thạnh suy
Tâm, Can, Thận, Phế thống quy vẹn toàn
Giờ hôm nay trước đàn Thầy chỉ
Mong các con chú ý tuân hành
Giúp nhơn tiến bước trọn lành
Đại Thừa Tâm Pháp toàn dành nơi đây! Thi
Tâm truyền bí pháp lẽ mầu vi
Hiểu thấu, đạo tâm sẽ hiệp quy
Chẳng hiểu, ngoài thân lo kiếm đạo
Ngàn năm, trăm kiếp chẳng mong gì!
Những điều chỉ dạy đã được phổ truyền, vậy các con còn điều chi muốn bạch trình, Thầy từ bi chỉ dạy.
Hà Thanh bạch:
Bạch Sư Phụ! Lúc lãnh chơn truyền nơi Thầy, con bán tín bán nghi, suy nghĩ vơ vẩn, Thầy biết ý thân mật vỗ vai trấn an: “Con là học trò Ông Giám Khảo mà còn sợ thua ai sao”? Mỗi khi nhớ đến hay đọc đến đoạn ghi chép lúc Học Đạo và lời vàng ngọc của Thầy, con nổi ốc cùng mình và một cảm giác lạ lùng khó tả bằng ngôn ngữ, ngày nay con mới biết rõ giá trị của lời tiên tri ấy.
Do Thiên ý muốn lưu lại tông chỉ Đại Thừa Đốn Giáo Pháp của Cao Đài Đại Đạo và bàn tay bí mật của Sư Phụ giúp đỡ, con diễn giải Pháp Bảo Đàn Kinh của Huệ Năng Lục Tổ đã xong vào ngày trung cửu năm Kỷ Dậu. Con đã thượng sớ trình Thầy và giờ nay có Thầy ngự bút con xin Thầy phê phán, nếu có điều chi sơ sót hoặc sai lầm con sẽ sửa chữa lại. Con trình luôn, ngày mùng 6 này con đi Sa Đéc dự ngày kỷ niệm em Cơ và tiếp xúc với đạo hữu thân ái để học tập Pháp Ý của Lục Tổ.
Lời bạch trình Thầy đại hỷ đáp:
Thi
Pháp Bữu Đàn Kinh buổi Hạ Nguơn
Hà Thanh diễn nghĩa rõ huy huờn
Giải rành từng đoạn theo văn mới
Lợi ích biết bao! Rất chánh chơn! Hựu
Chánh chơn đồ đệ của riêng Ta
Toại ý của Ta Đệ Tử Nhà
Từ trước đến nay nhiều tử đệ
Thành công trọn vẹn có Thanh Hà
Về dịp đi Sơ Lục Nhựt, Thầy sẽ ám trợ con để mọi việc được châu toàn.
Giờ Thầy mãn điển, Thầy ban ân chung các con, Thầy thăng. Trở Lại Mục Lục