SÁCH TỐ VĂN Thiên I : THƯỢNG CỔ THIÊN CHÂN LUẬNNgày xưa, Hoàng Đế khi sinh ra đã có tính thần linh, tuổi còn nhỏ đã biết nói, còn bé đã xử lý mọi việc nhanh nhẹn và chu đáo. Khi lớn lên, tính tình ông đôn hậu, minh mẫn. Khi thành nhân ông được lên ngôi vua [1]. Có lần ông hỏi Thiên Sư (Kỳ Bá) rằng : “Ta nghe rằng người thì thượng cổ tuổi tác có đến trăm tuổi mà động tác vẫn không suy yếu, người thì nay tuổi mới nửa trăm mà động tác đều suy yếu. Đó là vì thì thế khác nhau ư ? Hay là con người sắp mất đi ( sự hòa điệu Âm Dương)?[2] - Kỳ Bá đáp : “ Người thì thượng cổ đều biết đạo dưỡng, họ bắt chước theo lẽ (biến hóa) của Âm Dương, hòa hợp được với thuật luyện tinh khí, Ăn uống có điều độ, thức ngủ theo lẽ thường, không lao động mệt nhọc 1 cách cẩu thả, do đó hình thể và thần khí của họ đầy đủ để có thể sống trọn tuổi trời, trăm tuổi mới chết [3]. Người thì nay thì không thế, họ lấy rượu làm thứ uống, lấy sự cẩu thả làm lẽ thường, say sưa rồi giao hợp, lấy sắc dục làm cho tinh khí bị hao kiệt, hao tổn đến chân khí, họ không biết giữ vững cái chén đầy, không theo đúng sự thay đổi khí tiết bốn mùa để bảo dưỡng tinh thần, họ chỉ muốn làm cho khoái cái tâm, làm nghịch lại cái vui chân thực, họ thức bgủ không điều độ, do đó mà tuổi mới nửa trăm thì đã suy yếu vậy [4]. Ôi ! Thì thượng cổ, bậc thánh nhân dạy người dân dưới mình, (muốn cho họ) đều phải rõ về (tai hại) của hư tà, tặc phong, muốn cho họ tùy theo thì tiết mà tránh tà khí, phải giữ lòng điềm đạm, hư vô, phải sống đúng với chân khí mình [5]. Tinh thần có giữ được bên trong thì bệnh làm sao có thể đến được? [6] Được vậy thì chí sẽ nhàn mà ít ham muốn, tâm được an mà không sợ sệt, hình thể nhọc nhằn mà không mệt mỏi [7]. Khí được theo với lẽ thuận, mọi việc theo đúng ý muốn của mình và đều được toại nguyện [8]. Nhờ vậy mọi người được ăn ngon, mặc theo ý muốn, vui với tập tục nơi mình sống [9]. Kẻ ở vùng cao hay thấp không ham muốn cái gì ngoài nơi của mình ở [10]. Nhờ vậy, ta gọi người dân này là “phúc” [11]. Nhờ vậy, sự ham muốn không làm mắt bị mệt, điều dÂm tà không làm Tâm bị mê hoặc [12]. Tất cả kẻ ngu, bậc trí, bậc hiền, người đúng đắn không bị ngoại vật làm cho kinh sợ [13]. Cho nên, ta gọi đó là hợp với Đạo [14]. Lý do tại sao những người này có thể sống đến trăm tuổi mà động tác không suy yếu, đó là nhờ họ đã giữ được cái Đức của mình toàn vẹn, nên không bị nguy (tính mạng )(15). -Hoàng Đế hỏi : “Con người khi tuổi già không thể có con, đó là do tinh lực đã tận ư ? Hay là do Thiên số khiến như vậy ?”[16] - Kỳ Bá đáp : “Con gái 7 tuổi Thận khí thịnh, răng thay, tóc dài; tuổi mười bốn (nhị thất – 2 x 7) thì Thiên quý đến, Nhậm mạch thông, Xung mạch thịnh, Nguyệt sự theo đúng thì chảy xuống, cho nên có thể sinh con; tuổi hai mươi mốt (tam thất – 3 x 7) Thận khí sung mãn, cho nên răng thực mọc lên và dài hẳn; tuổi hai mươi tám (tứ thất – 4 x 7) thì gân và xương cứng chắc, tóc dài nhất, thân thể thịnh tráng; tuổi ba mươi lăm (ngũ thất – 5 x 7) mạch Dương minh bị suy, mặt bắt đầu nhăn, tóc bắt đầu rụng; tuổi bốn mươi hai (lục thất – 6 x 7) mạch Tam dương bị suy ở trên, mặt bắt đầu nhăn, tóc bắt đầu trắng; tuổi bốn mươi chín (thất thất – 7 x 7) Nhậm mạch bị hư, mạch Thái xung suy thiếu, Thiên quý kiệt, mạch đạo ở hạ bộ không còn thông, cho nên hình thể bị hoại và không còn sinh con nữa [17]. Trượng phu (con trai) 8 tuổi thì Thận khí thực, tóc dài, răng thay; tuổi mười sáu (nhị bát – 2 x 8) Thận khí thịnh, Thiên quý đến, tinh khí (có thể) chảy tràn ra, Âm Dương được hòa, cho nên có thể có con; tuổi hai mươi bốn (tam bát – 3 x 8) Thận khí được sung mãn, gân xương thẳng cứng, cho nên răng thực mọc lên và dài hẳn; tuổi ba mươi hai (tứ bát – 4 x 8) gân xương đã to và thịnh, cơ nhục được đầy đủ và khỏe mạnh; tuổi bốn mươi (ngũ bát – 5 x 8) Thận khí suy, tóc rụng, răng bị khô; tuổi lục bát Dương khí suy kiệt ở trên, mặt nhăn, tóc bạc hoa râm; tuổi năm mươi sáu (thất bát) Can khí suy, cân không còn có thể động; tuổi sáu mươi tư (bát bát – 8 x 8) thiên quý kiệt, tinh khí ít đi, Thận tạng bị suy, hình thể đều bị suy cực, do đó mà tóc và răng bị rụng [18]. Thận chủ thủy, nhận tinh khí của ngũ tạng lục phủ để tạng chứa, cho nên nếu ngũ tạng thịnh thì có thể cho chảy ra; nay nếu ngũ tạng đều suy, cân cốt bị yếu, không còn sức, Thiên qúy tận, do đó tóc và tóc mai bị trắng, thân thể nặng nề, bước đi không vững, và sẽ không có con”[19]. -Hoàng Đế hỏi : “Có những người đã già mà vẫn có thể có con, tại sao thế ?”[20] - Kỳ Bá đáp : “Đó là trường hợp người đó bẩm thụ khí tiên thiên vượt mức, mạch đạo của khí hậu thiên còn thông, vì thế nên Thận khí hữu dư. Trường hợp này, con người có thể có con, nhưng dù sao, nam cũng không thể vượt qua tuổi bát bát, nữ cũng không thể vượt qua tuổi thất thất là tuổi mà tinh khí đều kiệt vậy”[21]. - Hoàng Đế hỏi : “Người nào biết tu dưỡng theo Thiên đạo, thì sống đến trăm tuổi, có con được không ?”(22] - Kỳ Bá đáp : “Người nào biết tu dưỡng có thể thay cho tuổi già để bảo toàn hình thể, dù thân thể và tuổi tác có thọ, vẫn sinh con được”[23]. - Hoàng Đế hỏi : “Ta nghe bậc chân nhân thì thượng cổ chống giữ được với Thiên Địa, nắm giữ được Âm Dương, hô hấp tinh khí, đứng vững để giữ được thần, cơ và nhục rắn chắc. Cho nên họ sống quá tuổi thọ của Thiên Địa không có lúc chấm dứt, đó là do ở tu dưỡng đúng Đạo mà được như vậy [24]. Thì trung cổ, có bậc chí nhân, giữ Đức được thuần, giữ Đạo được toàn, hòa được với Âm Dương. điều được với tứ thì, tâm họ xa rời được những phiền toái của cuộc đời, thân tránh khỏi bị phiền nhiễu bởi thế tục, tích chứa được cái tinh, bảo toàn được cái thần, đi rong chơi trong cõi Trời Đất, nghe thấy trong cõi xa của tám phương, Đây chính là phép làm cho tăng thêm tuổi thọ để được mạnh khỏe vậy, Những bậc này cũng sẽ có thể quay về với các bậc chân nhân [25]. Thứ đến là các bậc thánh nhân, đứng được trong cái hòa của Trời Đất, theo được cái lý của tám phương, thích ứng được với lòng ham muốn trong khoảng thế tục, không có cái Tâm tức giận, sân si; Hành động của họ không muốn xa rời với cuộc đời, cử chỉ họ không muốn trông vào nơi thế tục; Bên ngoài họ để hình thể mình bị lao nhọc bởi sự việc, bên trong không có cái lo lắng về tư tưởng, lấy sự điềm tĩnh, vui vẻ làm nhiệm vụ, lấy việc thực hiện cái Đạo là công lao; Hình thể họ không bị che lấp, tinh thần họ không bị phân tán; Được vậy, họ cũng sẽ sống được trăm tuổi [26]. Thứ đến là có bậc hiền nhân, Họ bắt chước theo lẽ vận hành của Trời Đất, mô phỏng theo cái tượng của mặt trời mặt trăng, sống theo sự thay đổi của Thiên vận, theo đúng lẽ nghịch tùng của Âm Dương, phân biệt rõ sự thay đổi của bốn mùa; Họ theo đúng được với nếp sống của người thượng cổ, thích hợp và đồng điệu với Thiên Đạo; Được như thế, họ cũng có thể làm tăng tuổi thọ đến chỗ cao nhất [27].
Thiên 2 : TỨ KHÍ ĐIỀU THẦN LUẬNBa tháng mùa xuân gọi là lúc phô bầy cái mới mẻ, Trời đất đều đang lúc sinh, vạn vật được tươi tốt [1]. Con người nên đi ngủ muộn và thức dậy sớm, đi bộ trong sân, xõa tóc với dáng điệu hòa hoãn, tất cả nhằm làm cho cái chí với mình được sinh ra [2]. Chúng ta chỉ nên làm những hành động giúp cho sự sống (sinh) mà không nên làm những hành động giết chết, nên cho mà không chiếm đoạt, nên thưởng thức mà không nên phạt [3]. Đó là chúng ta ứng với xuân khí, cũng là đạo ‘dưỡng sinh ‘ vậy [4]. Nếu nghịch lại, sẽ làm thương đến Can, đến mùa Hạ sẽ bị bệnh hàn, đó là vì xuân khí không ‘ phụng ‘ đủ khí ‘hạ trưởng ‘ cho mùa hạ [5]. Ba tháng mùa hạ gọi là thì của cây cỏ sum sê, tươi tốt, khí của Trời Đất giao nhau, vạn vật đều được kết trái, con người nên đi ngủ muộn và thức dậy sớm, đừng trễ lười vào những ngày hạ [6]ï. Tất cả nhằm làm cho cái chí của mình đừng ‘nộ’, làm cho anh hoa được chín đẹp [7]. Phải để cho hạ khí trong người thoát bớt ra ngoài, giống như là nó đi chơi ra ngoài một cách thích thú [8]. Đó là chúng ta ứng với hạ khí, cũng là Đạo ‘dưỡng trưởng’ [9]. Nếu nghịch lại sẽ làm thương đến Tâm, sang mùa thu sẽ bị bệnh sốt rét, đó là vì hạ khí không ‘phụng’ đủ khí ‘thu Thu’ cho mùa thu, mùa đông đến sẽ bị trúng bệnh [10]. Ba tháng mùa thu gọi là thời của vạn vật thịnh và hoa trái được chín, khí Trời trôi nhanh, khí Đất sáng suả, Con người nên ngủ sớm và thức sớm, cùng gây hứng với gà [11]ø. Tất cả nhằm làm cho cái chí của mình được an tĩnh, làm cho tránh được khí tiêu sai (sát) của mùa thu [12]. Nên thu liễm Thần khí lại, làm cho chúng ta thích ứng được với khí dung bình của mùa thu, đừng để cho chí của mình thoát ra ngoài, làm cho Phế khí được thanh, đó là chúng ta thích ứng được với thu khí, cũng là Đạo “dưỡng thu” vậy [13]. Nếu nghịch lại sẽ làm thương đến Phế, mùa đông sẽ bị bệnh tiêu chảy, đó là vì thu khí không “phụng” đủ khí “đông tạng” cho mùa đông [14]. Ba tháng mùa đông là thì vạn vật bế tạng, nước đóng băng, đất nứt nẻ, chúng ta không nên làm nhiễu loạn Dương khí, nên ngủ sớm, dậy muộn, phải đợi có mặt trời rồi mới dậy, tất cả đều làm cho chí của mình như núp như trốn, như có ý riêng tư, như đã có được một cái gì [15]. Chúng ta phải tránh lạnh tìm ấm, đừng để cho Dương khí thoát ra ngoài bì phu, khiến cho chân khí bị hao tổn một cách nhanh chóng, đó là chúng ta thích ứng được với đông khí, cũng là Đạo ‘dưỡng tạng’[16]. Nếu nghịch lại sẽ làm thương đến Thận, đến mùa xuân sẽ bị bệnh ‘nuy quyết’, đó là vì đông khí không “phụng” đủ khí “xuân sinh” cho mùa xuân [17]. Thiên khí trong sạch và sáng sủa [18]. Thiên Đức ẩn tạng và vận hành không ngừng, cho nên không cần phải đi xuống [19]. Nếu Thiên khí (bộc lộ ra) thì mặt trời mặt trăng không còn sáng và do đó mà tà khí len vào làm hại các không khiếu [20]. Nếu Thiên khí bị bế tắc thì Địa khí sẽ mất ánh sáng [21]. Nếu vân và vụ không còn ‘tinh’ thì sẽ làm ảnh hưởng đến bên trên làm cho bạch lộ không giáng xuống được [22]. Nếu sự giao hòa giữa Thiên khí và Địa khí không bộc lộ sáng tỏ thì sức sống của vạn vật không thi hóa được, do đó đa số các danh mộc sẽ bị chết, ác khí sẽ phát dương rộng ra [23]. Gió mưa không trúng tiết, bạch lộ không rơi xuống thì cỏ và lúa sẽ không được tươi tốt [24]. Gió dữ cuộn đến, mưa bạo ào rơi, bốn mùa trong Trời Đất không còn giữ được điều hòa, sẽ làm thất đi cái Đạo Như vậy cuộc sống chưa được nửa đường đã bị tuyệt diệt [25]. Duy chỉ có bậc thánh nhân là theo đúng với Thiên Đạo, vì thế họ giữ được thân mình không bị bệnh lạ, vạn vật không mất đi lẽ sống, sinh khí không bị kiệt [26]. Sống nghịch lại với xuân khí, sẽ làm khí Thiếu dương không sinh, Can khí bị nội biến [27]. Sống nghịch lại với hạ khí, sẽ làm cho khí Thái dương không trưởng, Tâm khí bị nội động [28]. Sống nghịch lại với thu khí thì khí Thái Âm không thu, Phế khí bị tiêu mãn [29]. Sống nghịch lại với đông khí thì khí Thiếu Âm không tạng, Thận khí bị độc trầm [30]. Ôi ! Âm Dương vận hành trong 4 mùa là cái căn (rễ), cái bản (gốc) của vạn vật [31]. Cho nên, bậc thánh nhân đến mùa xuân và mùa hạ thì dưỡng Dương, đến mùa thu và mùa đông thì dưỡng Âm, đó là để theo đúng với cái căn và cũng để cùng với vạn vật chìm nổi theo cánh cửa của việc sống chết [32]. Nếu sống nghịch lại với cái căn, đó là chặt đứt cái “bản”, là hủy hoại cái “chân” vậy [33]. Cho nên, Âm Dương vận hành trong 4 mùa là nơi chung thỉ của vạn vật, là cái gốc của việc sống chết [34]. Sống nghịch lại với Âm Dương thì tai và hại sẽ sinh ra, sống thuận theo với Âm Dương thì những tật bệnh nặng không thể xẩy, đó gọi là ‘đắc Đạo’ [35]. Đạo là con đường mà thánh nhân đi theo, kẻ ngu thì làm nghịch lại [36]. Theo đúng với Âm Dương thì sống, nghịch lại thì chết, theo đúng với Âm Dương thì trị (yên), nghịch lại thì loạn [37]. Xoay ngược cái thuận thành cái nghịch, gọi là ‘nội cách’ [38]. Cho nên, bậc thánh nhân không “trị : để ý, nghiên cứu” cái đã bệnh mà lo “trị” cái chưa bệnh, không “trị” cái đã loạn mà lo “trị” cái chưa loạn, đúng với ý nghĩa trên đã nói [39]. Ôi ! Đợi khi bệnh đã thành rồi mới dùng thuốc, đợi khi loạn đã thành rồi mới trị loạn, cũng ví như đợi khát (nước) rồi mới đào giếng, đợi lúc đánh nhau rồi mới đúc binh khí, như vậy, cũng chẳng là muộn lắm sao? [40].
Thiên 3 : SINH KHÍ THÔNG THIÊN LUẬNHoàng-Đế hỏi : “Ôi ! từ xưa đến nay, mạng sống của con người đều thông với ‘Thiên’, gốc của mạng sống lấy gốc ở Âm Dương [1]. Trong khoảng Trời Đất, trong khoảng lục hợp, dù cho cửu châu ( dưới đất) hoặc cửu khiếu, ngũ tạng, thập nhị tiết trong con người, tất cả khí đó đều thông với ‘Thiên Khí’ [2]. Khí đó sinh ra ngũ hành, khí sinh ra ‘Tam khí’ [3]. Nếu con người nhiều lần phạm vào sự ‘thông khí’ đó thì tà khí sẽ làm ‘thương’ đến bên trong, vì đây chính là cái ‘gốc’ của sự sống ‘thọ mệnh’ [4]. Khí của “trời xanh” là trong và sạch, (nếu sinh khí con người thông với Thiên khí) thì khí sẽ làm cho chí ý được bình trị [5]. Nếu con người sống thuận theo với sự thông khí đó thì sẽ làm cho Dương khí của mình được vững vàng, tuy có tặc tà đến, nó cũng không làm hại được [6]. Kết quả này là nhờ vào chúng ta sống thích ứng với sự thuận tư của tứ thì [7]. Bậc thánh nhân dựa vào đó để vận hành được cái tinh thần của mình, thích ứng được với Thiên khí, thông được với thần minh [8]. Ngược lại, nếu chúng ta sống làm mất đi cách sống “thông thiên” đó thì bên trong sẽ làm cho cửu khiếu bị bế, bên ngoài sẽ làm cho cơ nhục bị ủng, làm cho vai trò của “vệ khí” bị tán, bị giải, Ta gọi đây là trường hợp tự mình làm ‘thương’ đến thân mình, tự mình làm cho ‘nguyên khí’ bị tước đoạt vậy [9]. Dương khí trong con người cũng giống như nhật khí trên trời, nếu chúng ta làm thất đi (Dương khí đó) tức là chúng ta đã làm gẫy đi tuổi thọ một cách không ngờ được [10]. Cho nên, nếu Thiên khí vận hành phải dựa vào nhật khí để có sự sáng suả, thì ở con người Dương khí cũng phải nhân đó mà vươn lên; đó là ý nghĩa của ‘vệ khí’ bảo vệ bên ngoài con người vậy [11]. Gặp lúc chúng ta ở vào mùa lạnh, chúng ta nên thích ứng với bên ngoài như cái chốt cửa vận xoay, nếu chúng ta vọng động trong việc thức ngủ thì thần khí chúng ta trôi nổi ra ngoài (không còn giữ được Dương khí nữa) [12]. Gặp lúc chúng ta ở vào mùa nóng nực nó sẽ làm cho mồ hôi ra, trong lòng phiền muộn rồi đưa đến hơi thở khó khăn, nhanh và khò khè [13]. (Nếu nhiệt tà tấn công vào trong, ảnh hưởng đến thần minh) thân hình chúng ta tuy có yên tĩnh, nhưng lại phải nói nhiều, thân hình nóng lên như đang trên lò than, cần phải ra mồ hôi mới giải được bệnh [14]. Gặp lúc chúng ta bị thương bởi thấp tà, đầu chúng ta sẽ nặng như có cái gì đó trùm lên trên. Nếu khí thấp nhiệt này không bị tiêu trừ, nó sẽ làm cho phần đại cân bị co rút và ngắn lại (co lại mà không duỗi ra được, nó sẽ làm cho phần tiểu cân sẽ bị giãn ra mà dài ra (duỗi ra mà không co lại được) [15]. Cân bị co rút và ngắn lại gọi là ‘câu’; Cân bị giãn ra mà dài ra gọi là ‘nuy’[16]. Nếu khí hư làm cho có bệnh thủng, tứ chi sẽ lần lượt phù thũng và động tác sẽ bị nhầm lẫn qua lại với nhau, đó là tình trạng Dương khí bị kiệt mà ra [17]. Dương khí trong con người, nếu bị phiền và lao nhọc thì sẽ bị căng thẳng, tinh khí bị tuyệt; và nếu cứ lập lại nhiều lần như thế cho đến mùa hạ, sẽ làm cho con người bị bệnh ‘tiên quyết’; hai mắt sẽ mờ không thấy gì nữa, tai bế không nghe được gì nữa, mênh mông như nước vỡ bờ, cuồn cuộn như dòng nước trôi đi mà không dừng lại [18]. Dương khí trong con người, nếu vì giận dữ nhiều thì hình khí bị tuyệt, huyết khí bị uất kết ở trên, khiến người ta bị bệnh ‘bạc quyết’ [19]. Có người bị thương đến cân khí, làm cho cân bị lơi lỏng, hành động có vẻ như không chủ động được nữa, nếu mồ hôi chảy ra nửa bên người, sẽ gây thành bệnh ‘thiên khô’ [20]. Nếu sau khi mồ hôi ra mà lại bị thấp tà tấn công sẽ bị bệnh ‘tỏa phất’ [21]. Sự tai hại của những người ăn nhiều món cao lương, thường sinh loại nhọt to còn gọi là ‘đinh’, bệnh xảy ra dễ dàng như cầm một cái vật (chén) rỗng để chứa đựng một vật khác [22]. Nếu sau khi làm việc mệt nhọc, mồ hôi ra lại đứng trước gió, hàn khí sẽ tấn công vào trong gây thành những mụn nhọt đỏ trên mặt và mũi, nếu uất khí tích lâu ngày thành những mụn sởi [23]. Dương khí trong con người nếu sinh hóa được tinh khí thì sẽ dưỡng được thần khí, nếu nó được nhu hòa thì nó sẽ dưỡng được cân khí [24]. Sự mở đóng (của bì phu, tấu lý) bị thất điệu sẽ làm cho hàn khí theo đó mà vào để sinh ra chứng lưng còng [25]. Khi bị hãm mạch (do tà khí tấn công vào trong mạch) sẽ thành chứng ‘lũ’; nếu nó lưu lại và gây ảnh hưởng với vùng cơ nhục, tấu lý, nó sẽ đi theo con đường của các du huyệt vào trong gây cho người bệnh chứng lo sợ và kinh hãi [26]. (Doanh khí vốn vận hành bên trong mạch, nay nếu hàn khí nhập vào kinh mạch) doanh khí sẽ không còn vận hành tuân theo con đường của nó, nó sẽ nghịch hành vào vùng cơ nhục và tấu lý, thế là nó sẽ gây thành chứng ung thủng [27]. Nếu mồ hôi (phách hạn) ra chưa hết, trong lúc hình thể lại suy nhược, khí lại bị tiêu đến kiệt, các du huyệt sẽ bị bế tắc không không, gây thành chứng ‘phong ngược’ [28]. Cho nên, phong là nguyên nhân bắt đầu của trăm bệnh [29]. Tuy nhiên, nếu (Dương khí) giữ được thanh tĩnh thì cơ nhục và tấu lý được đóng lại và gìn giữ cẩn thận, dù cho có những đại phong có tính hà khắc, độc hại cũng không thể nào hại chúng ta được [30]. Đó là nhờ chúng ta thích ứng được với sự thuận tự của tứ thì vậy [31]. Cho nên, nếu tà khí gây bệnh lâu ngày, nó sẽ truyền hóa, trên dưới không còn giao nhau nữa, bấy giờ dù có những bậc lương y, họ cũng không thể làm gì được! [32] Vì thế, Dương khí bị súc tích cũng sẽ đưa đến chỗ chết [33]. Dương khí (súc tích) sẽ làm cách trở (không thông), và nếu đã bị cách trở như thế, chúng ta nên dùng phép tả [34]. Nếu chúng ta không có những cách trị liệu nhanh và chính xác, chỉ ứng phó bằng phương pháp vụng về, bệnh sẽ đi tới chỗ suy bại (tử vong) [35]. Vì thế, Dương khí của con người ban ngày chủ bên ngoài [36]. Sáng sớm, nhân khí của con người sinh ra, giữa trưa là lúc Dương khí thịnh lên, lúc mặt trời lặn về hướng tây là lúc Dương khí đã hư, “khí môn” bắt đầu đóng lại [37]. Vì thế, khi đêm đến chúng ta phải thu tạng (Dương khí) lại, đừng làm nhiễu loạn cân cốt, đừng có mặt ở những nơi có vụ và lộ (mù và móc) [38]. Nếu chúng ta sống nghịch lại với “3 thì” đó, hình thể chúng ta mới bị khốn đốn và suy bạc [39]. Kỳ Bá nói : “Âm có nhiệm vụ tạng tinh và ứng lên với (Dương khí) một cách nhanh chóng [40]. Dương có nhiệm vụ bảo vệ bên ngoài một cách vững vàng [41]. Nếu Âm không thắng được Dương sẽ làm cho mạch lưu hành một cách cấp bách, (và nếu Dương khí) trùng với Dương khí sẽ làm cho cuồng [42]. Nếu Dương không thắng được Âm sẽ làm cho khí của ngũ tạng cùng tranh nhau và sẽ làm cho cửu khiếu bất thông [43]. Cho nên bậc thánh nhân sống thuận với Âm Dương, nhờ vậy mà cân và mạch được hòa đồng, cốt tủy được vững chắc, khí và huyết vận hành theo đúng chiều của mình [44]. Được vậy thì bên trong và bên ngoài được điều hòa, tà khí không làm hại được ta, tai và mắt được thông và minh, chân khí của chúng ta đứng vững theo lẽ ‘thường’ của nó [45]. Khi mà phong tà vào ở khách tràn ngập trong thân thể con người, nó sẽ làm hại chân khí, tinh khí sẽ bị hao tổn, thế là tà khí sẽ làm “thương” đến Can khí [46]. Nếu vì ăn quá no, (Trường Vị bị uất tích và) cân mạch sẽ bị tổn thương và buông lơi, chứng ‘trường phích’ gây thành chứng trĩ [47]. Nếu vì uống (rượu) quá nhiều nó sẽ làm cho khí bị nghịch [48]. Nếu vì ráng sức làm việc, Thận khí sẽ bị ‘thương’, xương ‘cao cốt’ sẽ bị bại hoại [49]. Điểm quan yếu nhất của Âm Dương, đó là Dương khí phải được kín đáo và bảo vệ bên ngoài vững vàng [50]. Nếu cả hai, Âm và Dương, không còn hòa điệu với nhau sẽ ví như có mùa xuân mà không có mùa thu, có mùa đông mà không có mùa hạ [51]. Nếu làm cho cả hai được hòa điệu thì đó chính là một thứ pháp độ hay nhất [52]. Cho nên, nếu Dương khí quá kháng thịnh không có kín đáo và vững vàng nữa thì Âm khí sẽ bị tuyệt [53]. Nếu Âm được “bình” và Dương được “bí” (kín, vững) thì tinh thần mới được chính thường. Khi nào Âm Dương phân ly và tách rời nhau thì tinh khí mới tuyệt [54]. Nếu bị cảm bởi ‘lộ : móc’ và phong tà, sẽ sinh ra hàn nhiệt [55]. Vì thế, nếu mùa xuân bị ‘thương’ bởi phong khí, phong tà ở lại không đi, gây thành chứng ‘động tiết’; nếu mùa hạ bị ‘thương’ bởi thử khí, đến mùa thu sẽ thành bệnh sốt rét; nếu mùa thu bị ‘thương’ bởi thấp khí, nó sẽ nghịch lên trên thành bệnh ho, sau đó sẽ thành chứng ‘nuy quyết’; nếu mùa đông bị ‘thương’ bởi hàn khí, mùa xuân sẽ thành bệnh ‘ôn’ [56]. Cho nên, khí của bốn mùa sẽ thay đổi nhau để làm ‘thương’ đến ngũ tạng [57]. Âm được sinh ra lấy gốc ở ngũ vị; nhưng ngũ tạng thuộc Âm lại bị ‘thương’ cũng bởi ngũ vị [58]. Vì thế, thức ăn quá nhiều vị chua (toan), Can khí sẽ thịnh, Tỳ khí bị tuyệt [59]. Thức ăn quá nhiều vị mặn (hàm), khí của đại cốt bị lao thương, cơ nhục bị co ngắn lại, Tâm khí bị uất ức [60]. Thức ăn quá nhiều vị ngọt (cam), khí của Tâm làm cho suyễn và đầy, sắc mặt đen, Thận khí không còn bình hành [61]. Thức ăn quá nhiều vị đắng, Tỳ khí không còn nhu nhuận, Vị khí bị trướng mãn [62]. Thức ăn quá nhiều vị cay (tân), cân mạch bị bại hoại và buông lỏng, tinh thần cũng bị tổn thương [63]. Cho nên, nếu cẩn thận trong việc điều hòa ‘ngũ vị trong thức ăn’, cốt tiết sẽ được ngay thẳng, cân mạch được nhu hòa, khí huyết được lưu thông, tấu lý kín đáo, được vậy thì cốt khí được tinh cường [64]. Mọi người nên cẩn trọng theo đúng với phép ‘dưỡng sinh’ thì tuổi trời của mình sẽ được hưởng trọn [65].
Thiên 4 : KIM QUĨ CHÂN NGÔN LUẬNHoàng Đế hỏi: ‘Trời có 8 thứ gió, Kinh có 5 thứ gió, là nghĩa thế nào’? [1] Kỳ Bá thưa: ‘Tám thứ gió nếu là ‘tà phong’, phạm vào kinh, tức thành Kinh phong, nó xÂm vào 5 tạng, bệnh sẽ do đó mà phát sinh [2]. Chỉ cần được cái ‘sở thắng’ của 4 mùa, như : Xuân thắng Trường hạ, Trường hạ thắng Đông, Đông thắng Hạ, Hạ thắng Thu, Thu thắng Xuân. Đó tức là cái sở thắng của nó [3]. Đông phong sinh về mùa Xuân, bệnh phát tại Can du và cổ gáy [4]. Nam phong sinh về mùa Hạ, bệnh phát tại Tâm du và Hung hiếp [5]. Tây phong sinh về mùa thu, bệnh phát tại Phế du và vai, lưng [6]. Bắc phong sinh về mùa Đông, bệnh phát tại Thận du và lưng, đùi [7]. Trung ương là Thổ, bệnh phát tại Tỳ du và cột sống [8]. Cho nên, Xuân khí, thường phát bệnh tại đầu, Hạ khí, thường phát bệnh tại tạng, Thu khí, thường phát bệnh tại vai và lưng; Đông khí, thường phát bệnh tại tứ chi. Cho nên, về mùa Đông nếu biết giữ gìn cẩn thận, không để cho dương khí quá háo tán ra ngoài, thì sang Xuân sẽ không bị các chứng như vhảy máu cam, và bệnh ở cổ gáy. Trọng hạ không bị bệnh ở ngực sườn , Trường hạ không bị đổng tiết, trong bụng lạnh, Thu không bị phong ngược, Đông không bị tý quyết và xôn tiết hãn xuất . Nghĩ như tinh, là cái gốc của sinh mệnh con người. Cho nên người biết tạng tinh (giữ gìn, dè dặt) thì mùa xuân không mắc bệnh ôn. Về mùa Hạ, nếu thủ hãn (nắng nực ra mồ hôi) không tiết ra được, sang thu sẽ thành bệnh phong ngược... Đó là mạch pháp của bình nhân người thường, không bệnh. Cho nên nói rằng trong Âm có Âm, trong Dương có Dương. Trong một ngày thì ban ngày là dương, ban đêm là âm. Từ sáng sớm đến giữa trưa, là Dương ở trong Dương, từ giưã trưa đến hoàng hôn, là Âm ở trong Dương, từ hoàng hôn đến gà gáy, là Âm ở trong Âm, từ gà gáy đến sáng sớm, là Dương ở trong Âm. Cho nên con người cũng ứng theo như vậy. Nóùi về Âm Dương thuộc con người thì: ngoài là Dương trong là Âm, sau lưng là Dương, trước bụng là Âm; nói về Âm Dương ở trong tạng phủ con người thì: tạng là Âm, Phủ là Dương. Can, Tâm, Tỳ, Phế, Thận là 5 tạng, đều thuộc Âm, Đảm, Vị, Đại trường, Tiểu trường, Bàng quang, Tam tiêu là 6 phủ đều thuộc Dương. Sở dĩ muốn biết: Âm ở trong Âm, Dương ở trong Dương, là vì: Mùa Đông bệnh tại Âm, mùa Hạ bệnh Dương, mùa Xuân bệnh tại Âm, mùa thu bệnh tại Dương... Biết được bệnh tại đâu, có thể dùng chÂm thạch để điều trị. Cho nên, lưng thuộc Dương, mà Dương ở trong Dương, tức là Tâm, nếu Âm ở trong Dương, lại là Phế, Phúc thuộc Âm, mà Âm ở trong Âm, tức là Thận; nếu Dương ở trong Âm, lại là Can, Phúc thuộc Âm, nếu chi Âm ở trong Âm, lại là Tỳ. Đó đều là sự du ứng của Âm, Dương, Biểu, Lý, Nóäi, Ngoại, Tạng, Phủ vậy. Hoàng Đế hỏi: Năm tạng ứng với bốn mùa, vậy có sự thâu thụ (tiếp nhận, liên lạc) vì không? Kỳ Bá thưa: Có. Đông phương sắc xanh, thông vào Can, khai khiếu lên mắt, tạng Tinh ở Can. Phát ra bệnh thành chứng kinh sợ. Về vị là chua, thuộc về loài thảo mộc, thuộc về lục súc là con gà, thuộc về ngũ cốc là lúa mạch, thuộc về bốn mùa trên ứng với Tuế tinh, Xuân khí, thuộc về bộ phận đầu; thuộc về âm thanh là cung giốc, thuộc về số là số tám, thuộc về mùi là mùi hôi. Do đó, biết là thường phát sinh ra bệnh ở gân. Nam phương sắc đỏ, thông vào với tạng Tâm, khai khiếu lên tai, tạng tinh ở Tâm. Bệnh phát sinh ở cả 5 Tạng, về vị là vị đắng (khổ) và thuộc về hỏa, thuộc về lục súc là dê, thuộc về ngũ cốc là thử, thuộc về bốn mùa, trên ứng với sao Huỳnh, thuộc về âm là cung chủy, thuộc về số là số 7, thuộc về mùi là mùi hắc, do đó; biết là thường sinh bệnh ở mạch. Trung ương sắc vàng, thông vào với Tỳ, khai khiếu lên miệng. Tạng tinh ở Tỳ, Bệnh phát sinh ở cuống lưỡi , về vị là ngọt (cam), và thuộc về Thổ, thuộc về lục súc là con bò, thuộc về ngũ cốc là tắc, thuộc về bốn mùa, trên ứng với sao Chấn, thuộc về âm là cung, thuộc về số là số 5, thuộc về mùi là mùi thơm, do đó, biết là thường sinh bệnh tại nhục - thịt. Tây phương sắc trắng, thông vào với Phế, khai khiếu ở mũi, tạng tinh ở Phế, bệnh phát sinh ở vai, về vị là cay và thuộc về Kim, thuộc về lục súc là ngựa, thuộc về ngũ cốc là đạo, thuộc về bốn mùa, trên ứng với sao Thái bạch, thuộc về âm là cung thương, thuộc về số là số chín, thuộc về mùi là mùi tanh, do đó biết là thường sinh bệnh tại bì mao. Bắc phương sắc đen, thông vào với Thận, khai khiếu ở nhị Âm (tiền Âm và hậu Âm), tạng tinh với Thận, Bệnh phát sinh ở Khê, về vị là vị mặn và thuộc về Thủy, thuộc về lục súc là con heo, thuộc về ngũ cốc là đậu, về bốn mùa thì ứng với sao Thần, về âm là cung vũ, về số là số 6, về mùi là mùi húc mục, do đó, biết là thường sinh bệnh tại xương. Vậy nên người giỏi về xem mạch: phải xét rõ sự ‘nghịch tòng’ của 5 tạng, 6 phủ, và cái cội nguồn của Âm, Dương, Biểu, Lý và Tạng, Phủ... ghi nhớ ở trong tâm ý, hợp với tinh thần, sẽ biết được rõ rệt, khỏi phải hồ đồ thế là đắc đạo.
Thiên sáu: ÂM DƯƠNG LY HỢP LUẬNHoàng Đế hỏi rằng: Tôi nghe: trời là dương, đất là Âm; nhật là dương, nguyệt là Âm. Hợp cả tháng đủ, tháng thiếu, cộng có 360 ngày, thành một năm. Con người cũng ứng theo như vậy. Nay xét về ba kinh Âm, ba kinh Dương, lại có khi không tương ứng, là vì sao? (1). Kỳ Bá thưa rằng: Về Âm dương, lúc bắt đầu, đếm có thể tới 10, suy ra có thể tới số trăm, do trăm đếm tới nghìn, do nghìn đếm tới vạn...Rồi đếm không thể đếm. Nhưng về cốt yếu, vẫn chỉ là có ‘một’ (2). Trời che, đất chở, muôn vật mới sinh. Khi chưa tiết ra khỏi mặt đất, mệnh danh là Âm xử, tức là Âm ở trong Âm, khi đã tiết ra khỏi mặt đất, mệnh danh là Dương ở trong Âm (3). Dương phát triển ra chính khí, Âm đứng vào địa vị chủ trì, Nhờ đó, sự sinh phát triển ở mùa xuân, sự trưởng phát triển ở mùa Đông. Nếu trái lẽ thường đó, khi bốn mùa của trời đất sẽ bị vít lấp (4). Vậy cái lẽ biến của Âm dương, hợp với thể chất của con người, cũng có thể đếm mà biết được (5). Hoàng Đế hỏi rằng: Xin cho biết sự ly hợp của ba kinh Âm ba kinh Dương (6). Kỳ Bá thưa rằng: Thánh nhân ngảnh mặt sang phương Nam để trị dân, phía trước gọi là Quảng minh, phía sau gọi là Thái xung (7). Cái nơi phát sinh ra Thái xung, gọi là Thiếu Âm (tức thận); phía trên Thiếu Âm gọi là Thái dương (tức Bàng quang) (8). Thái dương gốc phát khởi từ chí Âm, kết ở Mệnh môn, gọi là Dương ở trong Âm (9). Từ khoảng giữa mình trở lên, gọi là Quảng minh (4). Phía dưới Quảng minh là Thái Âm (5), phía trước Thái Âm là Dương minh (6), Dương minh gốc phát khởi từ Lệ đoái, gọi là Dương ở trong Âm (7) (10). Về ‘biểu’: của Quyết Âm là Thiếu dương (6). Thiếu dương gốc phát khởi từ Khiếu Âm, gọi là Thiếu dương ở trong Âm (8) (11). Xem đó thì biết: sự ly hợp của ba kinh Dương. Thái dương là khai (mở), Dương minh là hạp (đóng) Thiếu dương là khu (cối cửa) (9). Ba kinh đó không nên để trái ngược nhau, ‘bác’ mà không ‘phù’, mệnh danh là Nhất dương (10). Hoàng Đế hỏi: Xin cho Biết sự ly hợp của ba kinh Âm?...(14). Kỳ Bá thưa: Ở bên ngoài là Dương, ở bên trong là Âm (1) (15). Vậy ở bộ phận giữa thuộc Âm, mạch Thái xung ở về phía dưới, nên gọi là Thái Âm (2) (16). Thái Âm gốc phát khỏi tự Aån bạch, gọi là Âm ở trong Âm (3) (17). Phía sau Thái Âm là Thiếu Âm (Thận) (18). Thiếu Âm gốc phát khỏi từ Dũng tuyền gọi là Thiếu Âm ở trong Âm (4) (19). Phía trước thiếu Âm, gọi là quyệt Âm (5). Quyệt Âm gốc phát khỏi từ Đại đôn. Đó là ‘tuyệt dương’, trong Âm kinh, và gọi là ‘tuyệt Âm’ (6) (19). Do đó, sự ly hợp của ba kinh Âm: Thái Âm là khai, quyết Âm là hạp (21). Thiếu Âm là khu (7). Ba kinh đó không nên để trái ngược nhau ‘bác’ chớ trầm, mệnh danh là nhất Âm (8). (22). Âm Dương đi lại không ngừng, chứa chất sự lưu truyền làm một chu, khi ở lý và biểu, cùng nhau thành công (1). (23).
Thiên bảy: ÂM DƯƠNG BIỆT LUẬNHoàng Đế hỏi: Người có 4 kinh, 12 tùng là thế nào? (24). Kỳ Bá thưa: Bốn kinh ứng với 4 mùa, 12 tùng ứng 12 tháng, mười hai tháng ứng 12 mạch (1). (25). Mạch có Âm Dương khác nhau. Biết dương sẽ biết được Âm, biết Âm sẽ biết được dương (1) (26). Phàm về Dương gồm có cả năm. Năm lần năm sẽ có hai mươi nhăm phần Dương (2) (26). Phàm gọi là Âm, tức là chân tạng. Nếu chân tạng hiện sẽ bại, bại sẽ chết (3) (27). Phàm gọi là Dương tức là dương của Vị quản (4) (28). Phân biệt được Dương sẽ biết được bệnh ở đâu; Phân biệt được Âm sẽ biết được thì kỳ chết hay sống (5) (29). Mạch của ba kinh Dương ở đầu, mạch của ba kinh Âm ở tay, nhưng cũng chỉ do có một (6) (30). Phân biệt được mạch về Dương, sẽ biết được cái ngày kỵ của bệnh; phân biệt được mạch về Âm sẽ biết được thì kỳ chết hay sống (7) (31). Nhớ kỹ mạch về Âm dương, không nên tin lời bàn bậy (8) (32). Phàm mạch gọi là Âm dương: nhân ở ‘khứ’ là Âm, ‘chí’ là dương, tĩnh là Âm, động là dương, trì là Âm, sác là dương (1) (33). Phàm muốn nhận mạch của chân tạng, nếu can ‘chí’ huyền tuyệt và ‘cấp’, 18 ngày sẽ chết; Tâm ‘chí’ huyền tuyệt, 9 ngày sẽ chết; Phế ‘chí’ huyền tuyệt, 12 ngày sẽ chết; Thận ‘chí’ huyền tuyệt, 7 ngày sẽ chết; Tỳ ‘chí’ huyền tuyệt, 4 ngày sẽ chết (2) (34). Bệnh về Nhị dương, phát sinh bởi Tâm và Tỳ. Về con gái, do sự uất kết, khiến cho nguyệt sự không thấy rồi truyền thành chứng phong tiêu. Nếu lại truyền làm chứng Tức bôn sẽ chết không chữa được (1) (35). Bệnh về Tam dương, phát ra chứng hàn nhiệt (rét nóng), ở bộ phận dưới thành chứng ung thũng, với ‘nuy, quyết, suyễn quyên’ (1). Hoặc lại thêm chứng bì phu khô khan, hoặc chứng ‘đồi sán’ (2) (36). Bệnh về Nhất dương thiểu khí (ít hơi) hay ho, hay tiết (1) (37). Rồi truyền thành chứng Tâm thống, và thành chứng Cánh (2) Bệnh về Nhị dương Nhất Âm, chủ về kinh hãi, bối thống, hay ợ, hay vươn vai...gọi là chứng phong quyết (38). Bệnh về Nhị Âm Nhất dương, hay trướng, Tâm mãn, hay thở dài (1) (39). Bệnh và Tam dương Tam Âm gây nên chứng thiên khô, nuy dịch, và tứ chi không cử động được (1) (40) Aùn vào mạch, thấy bật lên ‘nhất dương’, gọi là câu; thấy bật lên ‘nhất Âm’ gọi là Mao; thấy dương mạch bật lên mà cấp, gọi là Huyền; thấy dương mạch bật lên mà tuyệt, gọi Thạch;, thấy Âm Dương hai mạch, có vẻ bình quân, gọi là Lưu (1) (41). Âm tranh dành ở bên trong, Dương rắc rối ở bên ngoài; phách hãn không thâu tạng, tức nghịch sẽ nóùåi dậy; rồi hun lên Phế, gây nên suyễn minh (1) (42). Âm đó sinh ra, gốc có hòa mới là hòa (2). Nếu cương gặp cương, Dương khí sẽ bị phá tán. Âm khí cũng bị tiêu vong (3) (43). Cương nhu không hòa, kinh khí sẽ tuyệt (4) (44). Về loài tử Âm, chẳng qua 3 ngày thì chết; về loài sinh dương, chẳng qua 4 ngày thì chết (1) (45). Can truyền sang Tâm v.v...gọi là Sinh dương;, Tâm truyền sang Phế; gọi là tử Âm (2) (46). Phế truyền sang Thận, gọi là trùng Âm; Thận truyền sang Tỳ, gọi là tịch Âm. Chết, không chữa được (3) (47). Nếu kết về dương, thì thũng ở tứ chi (1) (48). Nếu kết về Âm, thì tiện huyết hai thăng, tái kết thì hai thăng, tam kết thì ba thăng (2) (49). Nếu kết ở khoảng Âm dương khe nhau, nhiều về bên Âm, ít về bên dương, thì gọi là Thạch thủy, thũng ở Thiếu phúc (3) (50). Hai dương kết, gọi là Tiêu (4) (51). Ba dương kết, gọi là Cách (5) (52). Ba Âm kết, gọi là Thủy (6) (53) Một Âm một dương kết, gọi là Hầu tý (7). Âm ‘bác’ Dương ‘biệt’, là mạch có thai (1); Âm dương đều hư, sẽ sinh chứng trường tiết mà chết (2) (55). Dương xen vào Âm, sẽ thành chứng hãn (3); Âm ‘hư’, dương, ‘bác’, sẽ thành chứng băng (4) (56). Mạch ở Tam Âm đều ‘bác’, tới nửa đêm ngày thứ hai mươi, sẽ chết (1) (57) Mạch ở Nhị Âm đều ‘bác’, tới lúc mặt trời lặn ngày thứ mười ba, sẽ chết (2) (58) Mạch ở Nhất Âm đều ‘bác’, tới ngày thứ mười sẽ chết (3) (59) Mạch ở Tam dương đều ‘bác’ và ‘cổ’, tới ngày thứ ba sẽ chết (5) (60) Mạch ở Tam Âm, Tam dương đều ‘bác’, Tâm mãn (đầy) Âm Dương ở phục bộ phát ra hết, như có sự uất kết...Tới ngày thứ năm, sẽ chết (5) (61). Mạch ở Nhị dương đều ‘bác’, sẽ mắc bệnh ‘ôn’, nguy; không quá 10 ngày, sẽ chết (6) (62).
Thiên tám: LINH LAN BÍ ĐIỂN LUẬNHoàng Đế hỏi rằng: Xin cho biết 12 Tạng có những nhiệm vụ gì và quí tiện như thế nào? (1) (63) Kỳ Bá thưa răng: (64) Tâm là một cơ quan quân chủ, thần minh do đó mà sinh ra (2) (65). Phế là một cơ quan tương truyền, chi tiết do đó mà sinh ra (3) (66) Can là một cơ quan Tướng quân, mưu lự do đó mà sinh ra (4) (67) Đởm là một cơ quan Trung chính, quyết đoán do đó mà sinh ra (5) (68). Chiên trung là một cơ quan thần sứ, hỷ lạc do đó mà sinh ra (6) (69) Tỳ Vị là một cơ quan thương lẫm (kho đụn), năm vị đó mà sinh ra (7) (70) Đại trường là một cơ quan truyền đạo (đưa dẫn, bài tiết) sự biến hóa do đó mà ra (8). (71) Tiểu trường là một cơ quan thụ thinh (chứa đựng), hóa vật do đó mà sinh ra (9) (72) Thận là một cơ quan Tác cường, kỹ xảo do đó mà sinh ra (10) (73). Tam tiêu là một cơ quan quyết độc, thủy đạo do đó mà sinh ra (11) (74) Bàng quang là một cơ quan châu đô, tân dịch chứa ở đó, khi hóa thì sẽ tiết ra (12) (75). Phàm 12 cơ quan ở trên, không nên để cho ‘tương thất’ (13) (76) Cho nên, nếu chủ ‘minh’ thì dưới yên. Lấy lẽ đó để dưỡng sinh thì sống lâu, trọn đời không bị đau ốm, lấy lẽ đó để trị thiên hạ, thì thái bình (14) (77). Chủ không minh thì 12 cơ quan sẽ nguy, sứ đạo (tứ tâm) vít lấp, thân hình bị thương. Lấy lẽ đó để dưỡng sinh thì sinh đau ốm, lấy lẽ đó để trị thiên hạ, thì rối loạn. Nên phải răn giữa lắm mới được (15) (78). Chí đạo rất huyền vi, biến hóa thật vô cùng, ai biết tới gốc nguồn (1) (79) Ở trong cõi mờ tối, ai người biết mấu chốt? Lo nghĩ suốt đêm ngày, sao cho được nên hay (2)? (80). Cái số hoảng hốt, nảy ra từ hào ly; cái số hào ly, nảy ra từ độ lượng; từ nghìn suy đến vạn, rồi càng suy càng lớn thêm mãi, cho tới khối thể cùng cực, thân hình mới được chính (3) (81). Hoàng Đế nói rằng: Thiện lắm thay! Tôi nghe cái đạo ‘tinh, quang’ thực là cái đức lớn của bực đại thánh. Muốn làm cho tuyên minh đạo ấy, nếu không trai giới, chọn ngày tốt, không giám thừa nhân (4) (82). Đế liền chọn ngày tốt, để bài luận trên đây vào trong nhà Linh lan (5) (83).
Thiên chín: LỤC TIẾT TẠNG TƯỢNG LUẬNHoàng Đế hỏi rằng: Tôi nghe: Trời do cái tiết ‘sáu sáu’ để làm nên một năm; người do cái số ‘chín chín’ để ‘chế hội’; tính ra người cũng ba trăm sáu mươi nhăm tiết, để hợp với trời đất, đã lâu rồi. Nghĩa đó như sao, xin cho biết (1). Kỳ Bá thưa rằng: Cái tiết ‘sáu sáu’ và ‘chín chín’ chế hội, là cốt để phân rõ ‘thiên độ’ và ghi rõ ‘khí số’ (2) (2). Thiên độ cốt là chỉ để đo sự vận hành của nhật nguyệt(3). Khí số cốt để ghi cái công dụng của hóa sinh (3).(4) Thiên là dương, địa là Âm; nhật là dương, nguyệt là Âm; sự vận hành có phận kỷ, mỗi một chu có đường lối (5). Nhật vận hành được một độ, thì nguyệt vận hành được mười hai độ, mà còn lẻ nữa (6). Cho nên tính cả tháng thiếu, tháng đủ, cộng ba trăm sáu mươi nhăm ngày mà thành một năm, chứa các khí ‘doanh, sóc, hư’ lại mà thành ra tháng nhuận (4).(7) Lập cây thẳng làm nêu để nhận phương hướng, tính kỹ những giờ khắc thừa...Đó là hoàn tất cái nhiệm vụ thiên độ (5) (8). Hoàng Đế hỏi rằng (9): Tôi đã được nghe thiên độ rồi. Xin cho nghe khí số, hợp lại với nhau như thế nào? (1) Kỳ Bá thưa rằng (10) : Trời lấy ‘sáu sáu’ làm tiết, đất lấy ‘chín chín’ chế hội (2) Trời có mười ngày, chọn sáu lần mười ngày mà chu giáp, thì thành một năm (11). Những bực thông thiên đời xưa, biết được cái gốc về sự sống của con người, là gốc ở Âm dương. Cái khí đó ở đất thì là chín châu, ở người thì là chín khiếu, đề thông với tam khí (4). Cho nên sinh ra năm tạng, mà khí thì có ba (5). Do ba mà thành đất, do ba mà thành người (6). Ba mà nhân với ba, hợp lại thì thánh chín, chín chia ra làm chín dã (khu vực), chín đã chia ra làm chín tạng (7). Cho nên ở con người, về hữu hình có bốn tạng về ‘thân có năm tạng’, hợp lại thành chín tạng để ứng với chín ‘dã’ ở trên (8). Hoàng Đế hỏi rằng: Tôi được nghe cái tiết ‘sáu sáu’ và cái số ‘chín chín’ rồi. Trên kia phu tử nói: ‘chứa khí...Thành nhuận’. Vậy chẳng hay thế nào là khí? (1) Kỳ Bá thưa răng: Năm ngày là một ‘hậu’, ba ‘hậu’ là một ‘khí’ sáu ‘khí’ là một mùa; bốn mùa là một năm...Mà đều theo khí của mùa để làm chủ trị (2). Năm vận cùng rập theo nhau, để cùng đi, cứ đến chọn cái tháng cuối năm, hết vòng rồi lại bắt đầu. Mùa đã lập, khí tán bố, như vòng không chỗ nói. Về ‘hậu’ cũng một khuôn phép ấy (3) Cho nên nói rằng ‘không biết sự ‘da lÂm’ trong một năm, sự suy hay thịnh của khí, và hư thực bởi đâu phát sinh...Không thể gọi là ‘lương công’ (4). Hoàng Đế hỏi rằng: Bắt đầu năm vận, quanh đi như vòng không đầu mối. Vậy về ‘thái quá’ và ‘bất cập’ như thế nào (1). Kỳ Bá thưa rằng: Năm khí thay đổi, đều có ‘sở thắng’, ‘thịnh’ hay ‘hư’ xảy ra là cái lệ thường (2). Hoàng Đế hỏi rằng: Năm khí thay đổi, đều có ‘sở thắng’, ‘thịnh’ hay ‘hư’ xảy ra cái lệ thường (2). Hoàng Đế hỏi rằng: Thế nào là bình khí ? Kỳ Bá thưa rằng: Không sai với thường hậu là bình (3) Hoàng Đế hỏi rằng: Thế nào là thái quá bất cập? Kỳ Bá thưa rằng: - Ở Kinh đã có nói rồi (4). Hoàng Đế hỏi rằng: Thế nào là Sở thắng?... Kỳ Bá thưa rằng: Xuân thắng trường hạ, trường hạ thắng Đông, Đông thắng Hạ, Hạ thắng Thu, Thu thắng Xuân... Đó là được cái thắng về năm hành; nhân lấy cái khí đó để đặt tên cho Tạng (1). Hoàng Đế hỏi rằng: Sao lại biết là thắng? Kỳ Bá thưa rằng: Cốt tìm ở cái khí của nó, nhưng đều phải bắt đầu từ mùa xuân. Nếu khí chửa đến mà đã đến, thì gọi là thái quá. Nóù sẽ bách cái ‘sở bất thắng’ mà lấn cái ‘sở thắng’. Như thế gọi là khi rÂm không phận, tật bệnh sẽ sinh ra ở bên trong, lương công cũng không thể ngăn được (2). Nếu đã đến mà không đến, thì gọi là bất cập. Như thế thì cái ‘sở thắng’ nó sẽ vọng hành, mà cái ‘sở sinh’ sẽ thu bệnh. Vì cái bất thắng nó bách đến nóùãi thế. Nên gọi là ‘khí bách’ (3). Ta cần phải cầu cái lúc khi nó đến. Cẩn thận để chờ cho đúng lúc, khi có thể cùng hẹn. Nếu trái cái thì hậu ấy, thì cái khí của năm vận sẽ không phân, tật bệnh sẽ sinh ra ở bên trong, dù lương công cũng không chữa được (4). Hoàng Đế hỏi rằng: Có sự gì duyên tập chăng? Kỳ Bá thưa rằng: Khí của trời, không thể nào vô thường, nếu khí không duyên tập, tức là phi thường, phi thường thì là biến (2). Hoàng Đế hỏi rằng: Phi thường thì sẽ biến như thế nào? Kỳ Bá thưa rằng: Biến đến thì mắc bệnh, sở thắng thì nhẹ, sở bất thắng thì nặng. Nhân đó mà lại mắc thêm tà khí thì sẽ chết. Cho nên không phải ‘thì’ của nó thì bệnh nhẹ, đúng vào ‘thì’ của nó thì bệnh nặng (3). Hoàng Đế hỏi rằng: Tôi nghe: Khí hợp mà có hình, nhân biến mà đặt tên; cái vận của trời đất, sự hóa của Âm dương, đối với muôn vật, cái gì ít, cái gì nhiều, xin cho biết (1). Kỳ Bá thưa rằng: Loài thảo sinh ra năm sắc, đến sự biến của năm sắc, sức mắt không thể trông siết, loài thảo sinh ra năm vị, đến cái ngon của năm vị, người ta không thể dùng siết (2). Sự thị dục của tạng không giống nhau, mà đều có giao thông với nhau (3) Trời nuôi con người lấy năm khí, đất nuôi con người bằng năm vị. Năm khí vào mũi, chứa ở Tâm Phế, khiến cho năm sắc sáng sủa, tiếng nói rõ ràng, năm vị vào miệng, chứa ở trường vị. Vị có nơi chứa, để nuôi năm khí. Khí hòa sẽ cùng sinh tân dịch thấm thuần, ‘thần’ do đó sẽ sinh ra (4). Hoàng Đế hỏi: Hình tượng của các tạng như thế nào? Kỳ Bá thưa rằng: Tâm là cái gốc của sinh mệnh con người, sự biến hóa của thần do đó là sinh ra. Vẻ tươi đẹp hiện lên mặt, và đầy đủ khắp huyết mạch. Nóù là kinh thái dương ở trong Dương, thông với khí mùa Hạ (1) Phế là cái gốc của khí, phách ký túc ở đó. Nóù phát hiện ra ngoài lông, và đầy ở trong bì phu. Nóù là Thái Âm ở trong dương, thông với khí mùa Thu (2). Thận là mộc nơi gốc của sự bế tạng, ‘tinh’ chứa ở nơi đó. Nóù tốt đẹp lên tóc, đầy đủ ở trong xương, Nóù là Âm ở trong thiếu Âm, thông với khí mùa Đông (3). Can là cái gốc của sự làm lụng khó nhọc, hồn ký túc ở đó. Nóù tươi đẹp ra các móng tay chân, và đầy đủ ở trong gân. Nóù sinh ra huyết khí. Thuộc về vị là chua, thuộc về sắc là sanh. Nóù là Thiếu dương ở trong dương, thông với khi mùa Xuân (4). Tỳ, Vị, Đại trường, Tiểu trường, Tam tiêu, Bàng Quang...là cái gốc của kho đụn. Vinh gửi ở nơi đó, gọi nó là một cơ quan như đồ dùng. Nóù hóa được các chất cặn bã, và du chuyển các vị vào hay ra. Nóù tươi đẹp lên môi và xung quanh miệng. Nóù đầy đủ ra ở thịt. Thuộc về là vị ngọt, thuộc về sắc là vàng. Nóù là chi Âm, thông với thổ khí (5). Tổng cộng tất cả mười một tạng, đều thủ quyết ở Đởm. (6) Cho nên: mạch ở nhân nghinh thấy một thịnh, thì bệnh ở Thiếu dương, thấy hai thịnh thì bệnh ở Thái dương; thấy ba thịnh thì bệnh ở Dương minh; thấy bốn thịnh trở lên thì tức là cách dương (1). Mạch ở thốn khẩu thấy một thịnh, thì bệnh ở Quyết Âm thấy hai thịnh thì bệnh Thiếu Âm; thấy ba thịnh thì bệnh ở Thái Âm. Thấy bốn thịnh trở lên thì tức là Quan Âm (2). Mạch ở nhân nghinh với thốn khẩu đều thấy thịnh, gấp bốn lần trở lên thì gọi là quan cách. Mạch về chứng quan cách, nếu quá không thể hợp được với tinh khí của trời đất, thì sẽ phải chết (3).
Thiên mười: NGŨ TẠNG SINH THÀNHTâm, hợp với mạch, vinh ra ở sắc, nó chủ ở Thận (1). Phế, hợp với bì (da), vinh ra ở lông, nó chủ ở Tâm (2) Can, hợp với Tâm, vinh ra ở trảo (các móng tay chân), nó chủ ở Phế (3). Tỳ hợp với Nhục (thịt), vinh ra ở môi, nó chủ ở Can (4) Thận, hợp với Cốt (xương), vinh ra ở tóc, nó chủ ở Tỳ (5) Cho nên, ăn nhiều vị mặn (hàm) thì mạch đọng xít mà sắc biến (6). Ăn nhiều vị đắng (khổ) thì bì khô mà mao rụng (7). Ăn nhiều vị cay (tân) thì cân cập (rút, khó co duỗi) mà trảo khô (8). Aên nhiều vị chua (toan) thì thịt (nhục) xúc (chùn) lại, mà môi rộp lên (9). Ăn nhiều vị ngọt (cam) thì xương đau mà tóc rụng. (10) Đó là sự bị thương của năm Tạng do năm vị gây nên (1) (11). Cho nên: Tâm ưa vị khổ, Phế ưa vị tân, Tỳ ưa vị cam. Can ưa vị toan, Thận ưa vị hàm... (12) . Đó là cái ‘hợp’ của năm vị đối với năm Tạng, do đó mới nuôi khí của năm Tạng (1) (13). Phàm sắc hiện ra mặt: xanh bợt như sắc cỏ héo, thì chết, vàng bệch như sắc chỉ xác, thì chết, đen kịt như sắc bồ hóng, thì chết, đỏ sẫm như sắc máu đọng, thì chết, trắng bợt như sắc sương khô, thì chế. Đó là năm sắc hiện ra triệu chứng chết (13). Sắc xanh như màu lông chim trả (bói cá), sắc đỏ như màu mào gà, sắc vàng như màu dưới bụng cua, sắc trắng như màu mỡ đông, sắc đen như màu lông quạ... Đều sống. Đó là 5 sắc hiện ra cái triệu chứng sống (14). Sinh ra ở Tâm, muốn được như lụa bọc ‘chu’ (đỏ thẫm) sinh ra ở Phế, muốn được như lụa bọc ‘hồng’ (đỏ nhạt, phớt); sinh ra ở Can, muốn được như lụa bọc ‘cam’ (đỏ tía), sinh ra ở Tỳ, muốn được như lụa bọc hạt quát lâu (đỏ vàng), sinh ra ở Thận, muốn được như lụa bọc ‘tử’ (tía hắt, hơi có màu đen). Đó là chân khí của năm Tạng ‘vinh’ ra ngoài sắc mặt (15). Sắc, Vị ứng với năm Tạng: Trắng, ứng với Phế, vị tần, đỏ, ứng với tâm, vị khổ vàng, ứng với Tỳ, vị ngọt; xanh ứng với Can, vị toan, đen, ứng với Thận, vị mặn (16). Cho nên. trắng ứng với bì; đỏ ứng với mạch; xanh ứng với cân (gân); vàng ứng với thịt; đen ứng với xương (17). Bao các mạch, đều dồn lên mắt (1); bao các tủy, đều dồn lại óc (óc là bể của tủy); bao các gân, đều dồn vào khớp (khớp xương), bao các huyết đều dồn vào Tâm; bao các khí đều dồn lên Phế... Đó là sự tuần hoàn sớm tối của ‘bốn chi, tám khí’ (18). Người ta, khi nằm thì huyết dồn về Can. Can nhờ huyết nên hay trông; chân nhờ huyết nên hay đi; tay nhờ huyết nên hay nắm; ngón tay nhờ huyết nên hay cầm (19). Nằm, dậy, ra ngoài, bị gió thổi, huyết tụ ở bì phu. Thành chứng Tý (vít lấp tê đau); tụ ở mạch lạc thành chứng sáp (huyết không lưu thông), tụ ở chân thành chứng quyết (giá lạnh). Ba chứng đó, đều do huyết lẩn đi không trở lại được nơi cốt không mà gây nên (20). Ở con người, có đại cốc 12 phận, tiểu khê 354 nơi, là 12 Du... Đó đều là nơi hội tụ của Vệ khí (21). Tà khí ‘khách’ ở đó, có thể dùng chÂm thạch cho tiết bỏ đi (22). Bắt đầu chẩn bệnh, phải xét rõ Âm dương kinh khí của 5 Tạng để đoán bệnh (23). Muốn biết bệnh bắt đầu từ kinh nào, phải lấy kinh khí của 5 Tạng làm căn bản (24). Phàm: nhức đầu, đau trán là do dưới hư trên thực, lỗi tại Túc Thiếu Âm Cự dương, quá lắm thì vào Thận (25). Chóng mặt choáng váng, mắt mờ, tai điếc; là do dưới thực trên hư, lỗi tại Túc Thiếu dương quyết Âm, quá lắm thì vào Can (26). Bụng đầy anh ách, suốt tới Chi cách, dưới quyệt, trên mạo (chóng mặt) lỗi tại Túc Thái Âm, Dương minh (27). Khái thấu hơi nghẽn, trong ‘hung’ quyết nghịch, lỗi tại Thủ Dương minh Thái Âm (28). Tâm phiền đầu nhức, bệnh ở trong cách, lỗi tại Thủ Cự Dương Thiếu Âm (29). Về mạch: Có đại, tiểu hoạt, sắc, phù, trầm, có thể chia rõ, cái tượng của năm tạng, có thể lấy loại để suy, năm tạng hợp với năm Âm, có thể lấy ý để biết, năm sắc hiện ra nét mặt, có thể lấy mắt để trông. Người ta nếu hay đem hợp cả sắc với mạch thì về phép chữa bệnh có thể vẹn toàn (1) (30). ‘Xích’ mạch hiện đến, thấy suyễn và kiên, ấy là có tích khí ở trong, do bị hại về sự ăn, bệnh đó gọi là Tâm tý. Nếu bệnh mắc bởi ngoại dÂm, thì cũng bởi nghĩ khiến cho Tâm hư, nên tà khí mới có thể phạm vào được . ‘Bạch’ mạch hiện đến, suyễn mà phù, đó là trên hư dưới thực, sẽ thành chứng kinh, bởi có tích khí ở trong Hung (33). Nếu suyễn mà hư, thì gọi là phế tý hàn nhiệt. Bệnh này gây nên bởi say rượu mà nhập phòng (3) (34). ‘Thanh’ mạch hiện đến, trường mà bựt mạnh ở tả hữu, đó là bởi có tích khí ở Tâm hạ và hai bên sườn gọi là Can tý. Bệnh này gây nên bởi hàn thấp, với chứng sán giống nhau, hoặc lưng đau chân lạnh và đầu nhức (4) (35). ‘Hoàng’ mạch hiện đến, đại mà hư, có tích khí ở trong bụng gọi là quyết sán, cùng một chứng trạng với đàn bà giống nhau. Bệnh này gây nên bởi tứ chi có mồ hôi mà gặp gió. (5) (36). ‘Hắc’ mạnh hiện đến, trên kiêm mà đại, đó là vì có tích khí ở tiểu phúc với tiền Âm, gọi là chứng thận tý. Chứng này gây nên bởi tắm gội nước lạnh mà đi nằm ngay (6) (37). Phàm xét những mạch Cơ kinh thuộc về ngũ sắc. Mặt vàng, mắt xanh; mặt vàng, mắt đỏ; mặt vàng, mắt trắng; mặt vàng, mắt đen... đều không chết (38). Nếu mặt xanh, mắt đỏ; mặt đỏ, mắt trắng; mặt xanh, mắt đen; mặt đen, mắt trắng; mặt đỏ, mắt xanh...đều chết (1) (39).
Thiên mười một: NGŨ TẠNG BIỆT LUẬNHoàng Đế hỏi rằng: Tôi nghe những kẻ phương sĩ (1) hoặc lấy não tủy làm Tàng, hoặc lấy Trường, Vị làm Tàng, hoặc lấy làm Phủ... mà đều lấy làm phải cả, không biết vì sao, xin nói rõ cho nghe... [1] Kỳ Bá thưa rằng: Não, tủy, cốt, mạch, đởm, nữ tử bào...sáu thứ đó đều do địa khí sinh ra. Nóù đều Tàng ở Aâm, mà tương với đất, chỉ có Tàng mà không tàng, gọi nó là “kỳ hằng chi phủ” [2]. Đến như Vị, Đại trường, Tiểu trường, Tam tiêu, Bàng quang..., năm cái đó đều do thiên khí sinh ra. Khí của nó tượng với trời, chỉ tả mà không tàng. Nóù hấp thụ cái trọc khí của năm Tàng, nên gọi là “truyền hóa chi phủ”, nó không thể tích trữ được lâu mà phải du tả ngay (2) [3]. 4) Phách môn cũng là một cơ quan sai khiến của năm Tàng, thủy cốc tới nơi đó, không thể chứa lâu (3) [4]. Phàm gọi là năm Tàng, tức là những cơ quan chứa tinh khí mà không tả, nó chỉ mãn mà không thực [5]. Đến như phủ là một cơ quan truyền hóa mà không tàng, cho nên chỉ thực mà không thể mãn [6]. Bởi vì: thủy cốc vào miệng, thời Vị thực mà Trường hư, khi thức ăn đã dẫn xuống, thời Trường thực mà Vị hư. Cho nên nói: “thực mà không mãn, mãn mà không thực” [7]. Hoàng Đế hỏi rằng: Khi khẩu sao lại có thể làm chủ cho cả năm Tàng?. (1) [8]. Kỳ Bá thưa rằng: Vị, coi cũng như cái biển để chứa thủy cốc, nó là nguồn gốc của sáu phủ [9]. Năm vị ăn vào miệng, chứa ở Vị để nuôi khí của năm Tàng. Khí khẩu cũng tức là Thái âm [10]. Phàm khí vị của năm Tàng sáu Phủ, đều sản xuất ra từ Vị, rồi biến hiện lên khí khẩu. Cho nên ở Tàng tượng luận đã nói: “năm khí hút vào mũi, chứa ở Tâm Phế: [11]. Tâm phế có bệnh, mũi cũng vì đó mà thở không thông (2) [12]. Phàm trị bệnh, phải xét ở bộ phận dưới như Trường Vị, là cơ quan thu nạp và bài tiết thủy cốc, lại phải chẩn ở khí khẩu để đoán cái khí của Tàng, Phủ...Rồi mới nhận xét đến ý chí và bệnh tình ra sao [13]. Nếu câu nệ vào quỉ thần, không thể nói là đức tốt, nếu lại ghét cả châm thạch, không thể tiến tới trí xảo (1) [14]. Người mắc bệnh, không muốn để cho dùng đúng phương pháp để điều trị, bệnh tật không khỏi, dù có cố chữa cũng là vô ích [15].
Thiên mười hai: DỊ PHÁP, PHƯƠNG NGHI LUẬNHoàng Đế hỏi rằng: Y giả trị bệnh, cùng một bệnh mà phép chữa không giống nhau lại cùng đều khỏi, là vì sao” [1]. Kỳ Bá thưa rằng: Đó là do địa thế khác nhau [2]. Tí như Đông phương, là một khu vực cái khí của trời đất bắt đầu phát sinh từ đó. Nơi đó sản xuất cá và muối, nên gần bể, người sinh ở nơi đó hay ăn cá và ưa vị mặn. Ở đã lấy làm quen, ăn đã lấy làm ngon. Cá ăn nhiều khiến người hay có chứng nhiệt trung (nóng ruột) vị mặn thắng được huyết, nên người ở đó phần nhiều sắc đen mà thớ thịt thưa doãng. Thường mắc phải bệnh ung thũng (mụn nhọt) (1). Về phép trị, nên dùng Biêm Thạch. Cho nên Biêm thạch sản xuất ở phương Đông (2) [3]. Tây phương là một khu vực sản loài kim ngọc, sa thạch cũng tụ họp nơi đó. Khí của trời đất chủ về thâu dẩn. Người sinh ở nơi đó thường ở nơi cao có nhiều gió, thủy thổ lạnh lẽo và cứng rắn. Dân thường mặc áo lông, ăn những vị đậm béo, nên tạng người béo chặt và nhiều mỡ... Do đó, tà khí không thể phạm được vào thận thể, tật bệnh chỉ có thể tà bên trong phát ra (1) [4]. Về phép điều trị, nên dùng độc dược (các thứ thuộc có chất độc). Cho nên độc dược cũng sản xuất ở Tây phương (2). Bắc phương là một khu vực bế tàng của trời đất. Đất ở đó phần nhiều cao như gò núi, gió rét cắt da, nước đóng thành băng. Người sinh nơi đó thường tụ họp quây quần và uống sữa. Do đó, tàng hàn, sinh ra chứng mãn (đầy). Phép chữa nên dùng ngải cứu, cho nên ngải cứu cũng sản ra ở phương Bắc (1) [5]. Nam phương là một khu vực trưởng dưỡng của trời, đất, dương khí rất thịnh ở nơi đó. Đất ở đó thấp và thủy thổ ẩm ướt, thường tụ nhiều vụ lộ (sa mù và mốc). Người sinh nơi đó ưa ăn vị chua và các thức ướp (như tương, mắm), Tạng người thớ thịt mịn đặc và hiện sắc đỏ, phần nhiều mắc bệnh loạn tý (1). Về phép trị, nên dùng “vi châm”. Cho nên “cửu châm” cũng sản xuất tại phương Nam (2) [6]. Trung ương, đất bằng phẳng và ẩm thấp, là một khu vực trời đất sinh ra muôn vật đông nhiều. Người sinh nơi đó, ăn uống nhiều thứ mà không bị vất vả lắm, nên thường mắc bệnh nuy, quyết, hàn, nhiệt (1) [7]. Về phép chữa nên dùng “đạo dẫn án cược “ cho nên phép đạo, dẫn, án cược cũng sán xuất ở Trung ương (2). Cho nên thánh nhân tùy theo các địa phương, các khí hậu để thi dụng các phương pháp trị liệu, đều được thích nghi (đúng). Vì thế nên, phép trị khác mà bệnh đều khỏi.
Thiên mười ba: DI TINH BIẾN KHÍ LUẬNHoàng Đế hỏi rằng: Tôi nghe đời xưa trị bệnh, làm cho di ích tinh, biến hóa khí... chỉ cần dùng phép Chúc do mà thôi. Đến đời nay trị bệnh, dùng độc dược để trị bên trong, dùng châm thạch để trị bên ngoài... Thế mà có người khỏi, có người không khỏi, là vì sao? [1] Kỳ Bá thưa rằng: Về đời vãng cổ, người ở lẫn vào khoảng cầm thú, động tác (làm mạnh) để cho khỏi hàn, Aâm cư (núp dưới bóng râm) để cho khỏi nắng. Bên trong không có gì hệ lụy, bên ngoài không có sự gì bó buộc. Đó là một thời đại điềm đạm, ý chí hoàn toàn thỏa thích, tà không thể lọt vào sâu. Vì thế nên không cần dùng độc dược để trị bên trong, dùng châm thạch để trị bên ngoài... Mà chỉ dùng Chúc do cũng có thể khỏi [2]. Đến đời nay thời khác hẳn. Sự ưu hoạn làm rầy bên trong, việc nhọc nhằn làm lụy bên ngoài, đã trái với khí của bốn mùa, lại ngược cả sự “thích nghi” của hàn thử (rét nóng). Gió độc thổi tới luôn, hư tà quanh sớm tối...Bên trong vào sâu tới Phủ, Tàng, cốt, tủy, bên ngoài làm thương đến không khiếu, bì phu. Vì thế nên bệnh nhẹ hóa nặng, bệnh nặng thời chết, dù cho Chúc do cũng không công hiệu [3]. Hoàng Đế khen phải, rồi lại hỏi rằng: Tôi muốn khi trị bệnh, biết rõ được sống chết, phân biệt được hiềm nghi, tìm tới điều cốt yếu, không hề thiếu sót... Làm thế nào được như vậy? [4] Kỳ Bá thưa rằng: Xem sắc, chẩn mạch, là một điều kiện rất cần thiết. Phải hợp với năm hành là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, và thời tiết của bốn mùa, gió của 8 phương...Đều có thể do sắc và mạch để xét đoán [5]. Về đời Trung cổ, đối với việc trị bệnh, đợi bệnh đến rồi mới trị. Dùng thang dịch (thuốc nước) điều trị trong 10 ngày, để trừ khử các chứng bệnh thuộc về “tám gió, năm tý” (1) [6]. Nếu qua mười ngày mà vẫn không khỏi sẽ phải dùng các cành của loài thảo tô, thảo cai (cành và rễ), cả gốc lẫn ngọn để điều trị. Tiêu, bản đã được, ta sẽ tiêu tán [7]. Đến đời gần đây thời không được thế nữa. Không biết nhận khí hậu của bốn mùa, không hiểu lẽ âm dương, không biết đường thuận nghịch. Khi bệnh đã thành rồi, mới dùng “vi châm” để trị bên ngoài, dùng thang dịch để trị bên trong, bọn thô công lại càng liều lĩnh, cho là bệnh có thể dùng phép “công” khiến cho bệnh cũ chưa khỏi, bệnh mới lại sinh ra...đó thật là cái lỗi không chịu xét rõ sắc và mạch, không nhận đích được tinh khi thịnh hay hư, và cái lẽ “tiêu bản”, nên mới đến như vậy [8]. Hoàng Đế hỏi rằng: Xin cho biết lẽ cốt yếu thế nào? [9] Kỳ Bá thưa rằng: Cái cốt yếu của sự trị bệnh là xét ở sắc và mạnh. Sau khi đã nhận rõ thế nào là thuận, thế nào là nghịch, thế nào là tiêu, thế nào là bản, rồi lại phải xét xem có “thần” hay không. Nếu không có thần thời sẽ chết. Đó là cái cốt yếu của sự trị bệnh [10
Thiên mười bốn: THANG DỊCH GIAO LỄ LUẬNHoàng Đế hỏi rằng: Dùng ngũ cốc để làm thang dịch với giáp lễ (rượu ngọt), như thế nào? [1] Kỳ Bá thưa rằng: Phải dùng gạo lúa đạo (tức gạo nếp) đun bằng rơm lúa đạo Gạo lúa đạo có cái tính chất hoàn toàn để nuôi được năm tàng, rơm lúa đạo có cái khí hợp với “bính tân” để hóa thủy và nuôi được ngũ tàng. Sở dĩ dùng như vậy là cốt để cho giúp ích cái sự chuyển vận của trung ương, để thấp nhuần ra bốn tàng bên ngoài [2]. Hoàng Đế hỏi rằng: Đời thượng cổ tuy có làm ra thang dịch, giao lễ, nhưng chỉ làm mà không dùng, là vì cớ sao ? [3] Kỳ Bá thưa rằng: Các bực thánh nhân đời xưa làm ra thang dịch giao lễ, là chỉ làm để phòng bị khi nào tà khi nó phạm đến đấy thôi. Nhưng các người về thời kỳ đó, phần nhiều giữ được hoàn toàn thiện chân, nên tặc phong không mấy khi phạm vào được. Vì thế, dù có làm ra thang dịch giao lễ, mà cũng không mấy khi phải dùng tới [4]. Đến đời trung cổ về sau, về sự giữ gìn thiện chân cũng đã có phần không được hoàn toàn chu đáo, mà tặc phong cũng có đôi khi phạm tới; khi đó dùng tới thang dịch giao lễ thời rất là công hiệu. [5] Hoàng Đế hỏi rằng: Đến đời nay thường dùng mà bệnh cũng không thấy khỏi hẳn là vì sao? [6] Kỳ Bá thưa rằng: Ở đời này, tất phải thu góp các thứ độc dược để trị bên trong, và các thứ “xàm, thạch, châm, ngải” để điều trị bên ngoài, thời bệnh mới mong khỏi được [7]. Hoàng Đế hỏi rằng: Đôi khi thấy người ta trị bệnh, đã châm thích khắp các nơi bì nhục gân cốt, và các huyết mạch cũng đều đã sơ thông, mà công hiệu vẫn không thấy, là vì sao?[8] Kỳ Bá thưa rằng: Đó là vì người dùng châm không sử dụng được tinh thần, nên dù có trị cũng là vô ích [9]. Hoàng Đế hỏi rằng: Thế nào là không sử dụng được tinh thần? [10] Kỳ Bá thưa rằng: Người dùng châm, nếu tinh thần của mình không chuyên nhất, thì ý của mình không vững vàng, thời dù có châm, bệnh cũng khó lòng khỏi. Giờ, bệnh nhân tinh thần đã tan rã, vinh vệ lại hao mòn, lại thêm thị dục vô cùng, ưu hoạn nóùái tiếp, tinh khí bại hoại, còn khỏi sao được [11]. Hoàng Đế hỏi rằng: Bệnh lúc mới phát sinh, còn kết tụ ở ngoài bì phu. Nếu không điều trị ngay, lại để đến lúc bệnh đã thành, thời dù có châm thạch, lương dược cũng không kịp nữa. Các lương công đời bây giờ, cũng đã đều biết phương pháp dùng thang dịch, biết các số hạn của bệnh khi tiến hay thoái, lại gần gụi bên cạnh, nghe rõ tiếng nói, xét rõ mạch sắc... Thế mà chữa bệnh vẫn không khỏi, là vì sao? [12] Kỳ Bá thưa rằng: Bệnh ở nơi gốc, mà “công” lại trị ở nơi ngọn, tà khí đâu vẫn đóng đấy, khỏi sao được? [13] Hoàng Đế hỏi rằng: Dương khí không bảo vệ được ở ngoài bì phu đó là vì Dương khí ở năm Tàng đã kiệt. Tân dịch không được nhờ khí hóa của Bàng quang, nên đầy ràn ra ngoài bì phu, bì phu phù thũng, tứ chi co rút...Gặp chứng trạng như vậy, nên điều trị theo phương pháp nào? [14] Kỳ Bá thưa rằng: Nên làm cho huyết mạch điều hòa, dồn bỏ tích trệ bên trong, vận động tứ chi cho khi huyết khỏi ngưng trệ, làm làm cho Phế khi ấm áp...Cơ nhục và huyết mạch đã điều hòa, thời chứng thũng mãn sẽ tiêu. Tiếp đó, lại dùng phép “khai qủi môn” (làm mở chân lông, tức phát hãn) và “khiết tĩnh phủ” (thông bàng quang, tức lợi tiểu tiện), tinh khí sẽ do đó mà hồi phục, Dương khí của năm Tàng đều được tán bố...Bệnh sẽ tự khỏi [15]. Hoàng Đế khen phải [16].
Thiên mười lăm: NGỌC BẢN LUẬN YẾUHoàng Đế hỏi rằng: Tôi nghe ở thiên Qũi đạc, Kỳ Hằng, nói về bệnh ý nghĩa, phương pháp không giống nhau, vậy phương pháp dùng thế nào? [1] Kỳ Bá thưa rằng: “Qũi đạc” là một phương pháp đo lường xem bệnh nóùâng hay sâu; “Kỳ Hằng” là nói về các chứng bệnh khác thường. Hãy xin nói về “chí, số” phàm mạch biến về năm sắc, sự đo lường về những bệnh khác thường [2] “kinh” dù khác mà “đạo” thời chỉ có “một”. “Một” đó tức là cái “thần” của con người. Khi thần ấy đã có, sẽ vận chuyển tới khắp năm Tàng, không còn bị ngừng trệ. Nếu bị ngừng trệ, tức là không có được sự vận chuyển từ trước. nghĩa đó rất tinh, rất vi, không thể coi thường, mà không chú ý [3]. Phàm dung sắc của con người, hiện ra ở bộ phận trên, dưới, tả, hữu, đều có sự “thích nghi” của nó.Thấy sắc hiện ra có vẻ nóùâng nóùåi, đó là bệnh tà chửa vào sâu, nên dùng thang dịch để điều trị, trong vòng 10 ngày, có thể khỏi (tức là hết lượt của 10 can) [4] . Thấy sắc hiện ra có vẻ xa sâu, đó là bệnh tà đã vào sâu, phải dùng dược tễ để điều trị, trong vòng 21 ngày có thể khỏi. (1) [5].Nếu thấy sắc hiện ra có vẻ thật sâu, đó là bệnh tà đã quá nặng, phải dùng giao lễ để điều trị, trong vòng 100 ngày có thể khỏi [6]. Nếu bệnh nhân sắc mặt trắng bợt, thịt má hốc hác không thể chữa. Nhưng cũng phải quá thời hạn 100 ngày, mà hạch đoản, khi tuyệt mới chết [6]. Nếu mắc phải ôn bệnh, mà thể chất hư quá, cũng chết [7]. Như trên kia đã nói: “dung sắc hiện ra ở bộ phận trên, dưới, tả, hữu..”Đó là vì, sắc hiện ra ở bộ phận trên tức là cái triệu chứng bệnh thế đương hăng , nên gọi là “nghịch”, thấy sắc hiện ra ở bộ phận dưới, tức là cái triệu chứng bệnh thế đã suy, nên gọi là “thuận” [8]. Con gái, sắc hiện ra ở bên hữu...Con gái thuộc âm, mà bên hữu cũng thuộc âm, như thế là “độc âm” nên gọi là “nghịch”. Nếu hiện ra ở bên tả, là Dương đã hòa với âm, tức là “thuận” [9]. Con trai sắc hiện ra bên tả...Con trai thuộc dương, mà bên tả cũng thuộc dương, như thế là “độc dương”, nên gọi là “nghịch” nếu hiện ra ở bên hữu, là Aâm đã hòa với Dương, tức là “thuận” [10]. Lại như: con trai mà sắc hiện ra bên tả, thế là “Trùng dương” nên ra bệnh chết, con gái mà sắc hiện ra bên hữu, thế là “Trùng âm” cũng là bệnh chết. Đó là do Aâm Dương tương phản mà gây nên bệnh [11]. Phương pháp điều trị, cần phải xét ở mạch xem phù hay trầm, như cán cân không để cho sai lệch...Đó là qui tắc của các thiên “Kỳ hằng” và “Quĩ đạc” vậy [12]. Phàm vào mạch, thấy mạch bựt mạnh lên tay, đó là mạch trạng của chứng Tý (tay đau và tê), chứng Liệt (chân đau và tê), chứng lúc hàn, lúc nhiệt [14]. Mạch hiện ra, chỉ có Aâm mà không có Dương, hoặc chỉ có Dương mà không có Aâm, gọi là mạch “Cô” [15]. Có Aâm mà không có Dương là mạch trạng của chứng vệ khi tiêu mòn, có Dương mà không có Aâm, là mạch trạng của chứng vinh khí tiêu mòn [16]. Mạch hư mà lại kiêm có chứng tiết (tả), đó là vì đoạt huyết (mất huyết). Bởi huyết thuộc về Aâm loại, chứng “tiết” dù không phải huyết (mất huyết), nhưng huyết do đó mà hư, nên mới gọi là “đoạt huyết” [17]. Mạch “cô” thuộc về tình trạng thiên thắng, nên mới gọi là “nghịch” nếu chỉ “hư”, còn có thể bổ, nên mới gọi là “thuận” [18]. Phàm muốn thi hành cái phương pháp của thiên Kỳ hằng, phải từ Thái âm trước. Bởi khí khẩu thuộc Thốn, có thể quyết được sống hay chết. Nên phải chú ý vào đó[19] . Ở ngũ hành, phàm cái gì khắc lại mình, gọi là “sở bất thắng”; nếu làm theo sự “sở bất thắng”, tức là nghịch, nghịch thời chết (1); [20] Ở ngũ hành, phàm cái gì mình khắc lại được, gọi là “sở thắng”; nếu làm theo sự “sở thắng”, tức là thuận, thuận thời sống (2) [21]. Cho nên tám gió và bốn mùa, hoặc làm theo “sở bất thắng”, hoặc làm theo “sở thắng”, đều hết rồi lại bắt đầu. Nếu qua một lần “nghịch hành”, thời tức là “hành sở bất thắng”, bệnh tất chết, không chối được nữa [22].
Thiên mười sáu: CHẨN YẾU KINH CHUNG LUẬNHoàng Đế hỏi rằng: [1] Cái cốt yếu của phép chẩn mạch, như thế nào? [1]. Kỳ Bá thưa rằng: [2] Tháng giêng, tháng hai, khí trời mới sinh, khí đất mới chớm...Khí của người qui tụ vào Can, vì Cân thuộc Mộc [2].Tháng ba tháng tư, là hai tháng Thìn. Tỵ [3].Nguyệt kiến thuộc về Thổ với Hỏa. Khí trời lúc đó đã tỏ hẳn, khi đất úc đó đã định hẳn, khi của người qui tụ vào Tỳ, vì Tỳ thuộc Thổ, mà Thổ lại sinh Hỏa [4]. Tháng năm tháng sáu là hai tháng Ngọ và Vị (Mùi). Nguyệt kiến thuộc Hỏa. Hỏa thuộc phương Nam. Khi trời đã thịnh, khí đất đã cao, khí của người qui tụ lên đầu. Vì đầu thuộc về Nam phương Hỏa [5]. Tháng bảy, tháng tám là hai tháng Thân, Dậu. Nguyệt kiến thuộc Kim. Kim thuộc Tây phương. Dương khí của trời đã giáng xuống, mà Aâm khí của đất bốc lên, mới bắt đầu túc sái (hanh và lạnh); Khí của người qui tụ vào Phế, vì Phế thuộc về Tây phương Kim [6]. Tháng chín, tháng mười, là hai tháng Tuất, Hợi. Nguyệt kiến thuộc về Thủy. Aâm khí mới bắt đầu đọng giá, địa khí mới bắt đầu vít lấp; Khí của người qui tụ vào Tâm... Tức là Dương khí đã vào Tàng [7]. Tháng mười một, tháng mười hai là hai tháng Tí, Sửu. Nguyệt kiến thuộc Thủy, Thủy thuộc về phương Bắc. Thủy đã cứng rắn, khí đất đã hợp, khí của người qui tụ vào Thận. Vì Thận thuộc bắc phương Thủy [8]. Cho nên, mùa xuân thời “thích” ở Tán du (các du huyết ở đường mạch), với các tấu lý. Thấy chớm máu thì thôi. Nếu bệnh hơi quá, thời cho hơi sâu châm xuống, để cho khí đạo được lưu thông [9]. Mùa hạ “thích” vào Lạc du (các huyệt của Lạc), thấy chớm máu thì thôi. Nếu để khí đạo truyền đi quá, lại gây nên sự bế tắc, mà bệnh đau càng tăng [10]. Mùa Thu “thích” vào các thớ thịt ở bên trong bì phu. Hoặc để nóùâng, hoặc xuống sâu, nhưng chỉ được vào tới thớ thịt, hễ thấy thần khí biến chuyển, thời thôi ngay [11]. Mùa Đông, thích vào các “Du khiếu” ở bên trong thớ thịt (gần tới xương), bệnh nặng, cho thẳng châm xuống, bệnh nhẹ, chỉ nên châm tới thớ thịt thời thôi [12]. Tất cả bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông đều có nơi “thích” nhất định, mà sâu nóùâng đều có phép, không thể nhầm lẫn [13]. Mùa Xuân mà thích vào bộ phận của mùa Hạ thời mạch loạn, khiến người khí sút đi, tà khí sẽ lấn vào cốt tủy, bệnh không thể khỏi. Do đó bệnh nhân sẽ không muốn ăn, và thiếu khí [14]. Mùa Xuân mà thích vào bộ phận của mùa Thu, thời bệnh nhân gân sẽ co rút và khí nghịch, lại sinh ra chứng khái thấu, bệnh không thể khỏi, thường lại thêm cả chứng kinh, hoặc hay khóc [15]. Mùa Xuân mà thích vào bộ phận của mùa Đông, khiến cho tà khí bám chặt vào trong Tàng, bệnh nhân sinh ra trướng mãn, và cứ lẳng lặng không muốn nói thành tiếng [16]. Mùa Hạ mà thích vào bộ phận của mùa Xuân, thời không những bệnh không khỏi, mà lại khiến bệnh nhân sinh ra rã rời mỏi mệt [17]. Mùa Hạ mà thích vào bộ phận của mùa Thu, thời không những bệnh không khỏi, lại khiến bệnh nhân trong lòng như muốn không nói gì, và cứ sợ sệt như người sắp bị bắt [18]. Mùa Hạ mà thích vào bộ phận của mùa Đông, không những bệnh không khỏi, mà lại khiến bệnh nhân thiểu khí thường hay gắt gỏng khó chịu [19]. Mùa Thu mà thích vào bộ phận của mùa Xuân, không những bệnh không khỏi, lại khiến cho bệnh nhân cứ thắc mắc như định làm việc gì, đến lúc đứng lên làm thời lại quên [20]. Mùa Thu thích vào bộ phận của mùa Hạ, không những bệnh không khỏi, khiến cho bệnh nhân chỉ muốn nằm bày bạy, mà lại hay mơ mộng [21]. Mùa Thu mà thích vào bộ phận của mùa Đông, không những bệnh không khỏi, lại khiến cho bệnh nhân thường rờn rợn ghê rét [22]. Mùa Đông mà thích vào bộ phận của mùa Xuân, không những bệnh không khỏi, khiến cho bệnh nhân chỉ muốn nằm, nhưng dù nằm mà vẫn không sao chớp được mắt [23]. Mùa Đông mà thích vào bộ phận của mùa Hạ, không những bệnh không khỏi, khiến cho bệnh nhân khí tiết quá nhiều ra ngoài gây thành các chứng tý [24]. Mùa Đông mà thích vào bộ phận của mùa Thu, không những bệnh không khỏi, lại khiến cho bệnh nhân sinh ra chứng khác [25]. Phàm thích vào Hung hay Phúc, cần nhất là phải tránh năm Tàng [26].Nếu trúng vào tâm, thời chỉ trong một đêm một ngày sẽ chết [27]. Nếu trúng vào tỳ, thời 5 ngày sẽ chết. Nếu trúng vào thận thời bảy ngày sẽ chết [28]. Nếu trúng và phế thời năm ngày sẽ chết [29]. Nếu trúng vào cách, cũng là một loại thương trúng, bệnh dù có khỏi, nhưng quá một năm tất cũng phải chết [30]. Thích, mà biết tránh năm tàng, tức là biết sự thuận nghịch đó [31]. Nóùi về thuận, tức là chỉ vào cái nơi mà Cách với Tỳ Thận giáp nhau [32]. Nhưng kẻ không biết thời trái lại thế [33]. Thích vào Hung Phúc, phải lấy miếng vải mỏng phủ lên cái huyệt của mình định thích đã, rồi mới dùng châm từ trên vải mà thích xuống. Thích một lần không khỏi lại thích thêm lần nữa. Lúc thích cần châm phải vững vàng ngay ngắn [34]. Thích vào chỗ sưng, nên làm lung lay mũi châm, nếu thích vào kinh mạch, thời đừng lung lay mũi kim. Đó là nói về phương pháp thích [35]. Hoàng Đế hỏi rằng: Chứng trạng lúc cuối cùng của mười hai kinh mạch như thế nào? [36]. Kỳ Bá thưa rằng: Mạch của kinh Thái dương, tới khi cuối cùng, thời chứng trạng phát hiện, mắt trợn ngược, tay chân uốn lật trái lại, hoặc co quắp không duỗi ra được, sắc mặt trắng bợt, mồ hôi ra đầm đìa, lúc đó sẽ chết [37]. Mạch của kinh Thiếu dương, tới lúc cuối cùng, các khớp xương đều rã rời, con ngươi mắt trông lệch sang một bên. Trong vòng một ngày rưỡi thời chết. Hễ lúc nào thấy sắc mặt đương tái xanh, bỗng chuyển trắng bợt, tức là lúc thần chết đã đến [38]. Mạch của kinh Dương minh tới lúc cuối cùng, miệng và tai thường méo lại hoặc vạy đi, hay sợ, nói càn, mạch ở tay và chân đều bật lên rất mạnh, ngoài da thịt không biết đau ngứa, đó là lúc sắp chết [39]. Mạch ở kinh Thiếu âm tới lúc cuối cùng, sắc mặt đen xạm, răng khô và bợn bẩn, bụng trướng lên và vít lấp cả trên dưới không thông đó là thời kỳ chết [40]. Mạch ở kinh Thái âm tới lúc cuối cùng, bụng trướng bế, khó thở, hay ợ, hay ọe, thời khí nghịch, khí nghịch thời mặt đỏ lên, khí không nghịch thời trên dưới không thông, không thông thời sinh ra mặt đen sạm, bì mao khô đét đi...Đó là thời kỳ chết [41]. Mạch của kinh quyết âm tới thời kỳ cuối cùng, bệnh nhân nóng ruột, cổ khô, hay đi tiểu, trong lòng buồn bực, quá lắm thời lưỡi rụt, thận nang co rúm lại...Đó là thời kỳ chết [42]. Trở lên là những bại chứng của 12 kinh [43].
Thiên mười bảy: MẠCH YẾU TINH VI LUẬNHoàng Đế hỏi rằng: Phương pháp chẩn mạch, như thế nào? [1] Kỳ Bá thưa rằng: Phương pháp chẩn mạch, nên chọn về lúc sáng sớm; lúc đó; âm khí chửa động, dương khí chửa tán, uống ăn chưa dùng, “kinh mạch” chưa thịnh, “lạc mạch” điều hòa, khí huyết chưa loạn...Lúc đó mới có thể chẩn mạch của người có bệnh [2]. “Thiết mạch” để nhận xét âm dương của năm Tàng động tĩnh thế nào, “quan sắc” để nhận xem hình thể của bệnh nhân thịnh suy thế nào...Năm Tàng hữu dư, hay bấc túc, sáu phủ cường kiện hay suy nhược...Hợp cả lại để cùng xem xét và quyết tử sinh (1) [3]. Mạch, là một cái kho của huyết [4]. Mạch trường thời khí vượng, mạch đoản thời khí bệnh, mạch sác thời tâm phiền [5]. Mạch Đại thời bệnh tiến [6]. Mạch ở Thốn khẩu thịnh thời khí bốc lên [7]. Mạch ở xích trung thịnh thời khí thụt xuống (thành bệnh trướng) [8]. Mạch Đại thời khí suy, mạch tế thời khí ít, mạch sác thời tâm thống [9]. Mạch cuồn cuộn đến tuôn như suối nước chảy đó là bệnh tăng tiến mà sắp tới lúc tệ bại, mạch đi lườn lượt thẳng như dây cung, tức là cái triệu chứng của sự chết (1) [10]. Năm sắc hiện ra ngoài mặt, đó là cái tinh hoa của khí[11]. Sắc xinh muốn được như lụa trắng bọc chu sa không muốn như cục son [12]. Sắc trắng muốn được màu lông ngỗng, không muốn như hạt muối [13]. Sắc xanh muốn được như mầu ngọc bích, không muốn như sắc chàm [14]. Sắc vàng muốn được như the trắng bọc Hồng hoàng, không muốn như Hoàng thổ [15]. Sắc đen muốn được như màu sơn then, không muốn như nhọ nóùài [16]. Nếu cái tinh hoa của năm sắc hiện cả ra ngoài, thời không thể thọ được [17]. Cái khí tinh minh của năm Tàng, cốt nhờ nó để nhận biết muôn vật, chia rõ trắng đen nhận rõ ngắn dài. Nếu lại coi dài là ngắn, coi trắng như đen...Đó tức là cái triệu chứng khí tinh minh của năm Tàng đã suy kiệt [18]. Năm Tàng là cơ quan ẩn khuất ở bên trong, nhưng tiếng nói và sắc mặt, đôi phen vẫn phát hiện ra bên ngoài [19]. Phàm người trung thịnh, tàng mãn, do khí thắng mà lại bị thương về sự “khủng” (thuộc thận), nghe tiếng nói văng vẳng như người ở trong nhà nói “vọng” ra đó là trung khí bị thấp khí xâm lấn [20]. Nếu giọng nói nhè nhẹ, nói vài tiếng cách quãng, lúc lâu rồi mới lại nói tiếp... Đó là mắc chứng đoạt khí (khí bị hao mất) [21]. Bệnh nhân tung bỏ chăn, lật bỏ áo, nói năng càn bậy, không kể gì người thân hay sơ... Đó là thần minh (tức thần khí của 5 tàng) bị rốn loạn [22]. Đại tiện bất cấm, là do Tỳ Vị đã bại, tiểu tiện bất cấm là do Bàng quang đã suy. Hai cơ quan đó, giữ lại được thì sống, không giữ lại được thì chết [23]. Con người cường kiện, là nhờ ở năm tàng. Đầu là một cái kho để chứa thần khí của năm tàng. Nếu bệnh nhân đều lệch đi, mắt lõm vào đó là tinh thần sắp mất [24]. Vai với lưng, là phủ của bộ phận Hung (lồng ngực, ức). Nếu bệnh nhân lưng gù xuống vai lệch đi, đó là bộ phận Hung đã bị hỏng [25]. Yêu (chỗ ngang thắt lưng), nó là phủ của thận. Nếu bệnh nhân không uốn đi lật lại được, đó là thận sắp bị hỏng [26]. Đầu gối, nó là phủ của Cân. Nếu bệnh nhân không co vào duỗi ra được, lúc đi thời cứ phảo lom khom... Đó là lúc cân sắp bị bại [27]. Cốt (xương) nó là phủ của Tủy. Nếu bệnh nhân không đứng lâu được, hoặc đi thời lảo đảo... Đó là xương sắp bị bại. Vậy con người được phủ khí mạnh thời sống, trái lại, nếu mất thời chết [28]. Kỳ Bá nói: Tàng thuộc âm. Phủ thuộc Dương, Thu Đông thuộc Aâm, Xuân Hạ thuộc Dương [29]. Thận chủ về cái khí bế tàng của mùa Đông, mà lại trung thịnh, tàng mãn, vậy đó là do cái tinh của Thận tàng hữu dư [30]. Bàng quang chủ về cái khí Hạ thịnh của Thái dương, mà lại tiểu tiện bất cấm, đó là do cái khí của Bàng quang bất túc gọi là Tiêu. Đó là những chứng trạng với bốn mùa [31]. Nếu nên thái quá mà lại bất túc, gọi là “tinh” tức lá cái tinh của thận tàng bị tiết ra ngoài, nên bất túc mà lại hữu dư, gọi là “tiêu”, tức là cái thủy của Bàng quang lại chứa lại ở bên trong. Những hiện tượng đó do Tàng, Phủ, Aâm, Dương không “tương ứng” với nhau, gọi nóù chứng quan cách (1) [32]. Hoàng Đế hỏi rằng: Mạch, động ứng về bốn mùa thế nào? Làm sao biết được bệnh nơi đâu? Làm sao biết được bệnh biến thế nào? Làm sao biết được bệnh bỗng ở bên trong? Làm sao biết được bệnh bỗng ở bên ngoài? Xin cho biết rõ năm điều đó [33]. Kỳ Bá thưa rằng: Ngoài muôn vật, trong 6 hợp, sự biến của trời đất, lẽ ứng của âm dương. Cái ấm của mùa Xuân sẽ gây nên cái nóng của mùa Hạ, cái “phẫn” (tức bực) của mùa Thu, sẽ gây nên cái “nóùä” của mùa Đông. Cái sự “động” của bốn mùa, mạch sẽ theo đó mà lên xuống [34]. Ứng với mùa xuân, mạch như “qui” (thược tròn), ứng với mùa Hạ, tượng mạch như “củ” (thược vuông), ứng với mùa Thu, tượng mạch như “Hành” (cán cân), ứng với mùa Đông, tượng mạch như “quyền” (quả cân) [35]. Aáy cho nên, sau Đông chí 45 ngày, dương khí hơi lên, âm khí hơi xuống, sau Hạ chí 45 ngày, âm khí hơi lên, dương khí hơi xuống. Aâm dương lên xuống đều có thời giờ nhất định, mạch cũng theo đó làm kỳ hạn, biết là trong mạch có sự phân rẽ. Nhận thấy được kỳ hạn của sự phân rẽ, sẽ biết được thời kỳ chết (1) [36]. Mạch rất vi diệu, xét kỹ mới hiểu, mạch có mối giường, trước từ Aâm Dương, mạch có thường kinh (phép thường), do năm hành sinh, năm hành sinh ra, hợp với bốn mùa [37]. Dùng bổ hay tả, đều phải theo đúng với lẽ Aâm Dương của trời đất. Theo đúng được lẽ Aâm Dương, sẽ biết rõ được sống hay chết [38]. Vì thế nên, tiếng của con người, hợp với ngũ âm, sắc hợp với ngũ hành, mạch hợp với Aâm Dương [39]. Vậy nên người: Aâm thịnh thời mộng lội nước, và sợ hãi. Dương thịnh thời mộng lửa cháy bốc to [40]. Aâm Dương đều thịnh thời mông cùng giết hại lẫn nhau [41]. Thượng thịnh thời mộng bay, hạ thịnh thời mộng ngã (từ trên cao lăn xuống) [42]. Nó quá thời mộng cho, đói quá thời mộng lấy [43]. Can khí thịnh thời mộng nóùä [44]. Phế khí thịnh thời mộng khóc [45]. Đoản trùng (sán sơ mít) nhiều, thời mộng hội họp đông người [46]. Trường trùng (giun sán) nhiều thời mộng đánh nhau xây xát (1) [47]. Phàm chẩn mạch, phải giữ Tâm chí cho hư tĩnh, mới có thể nghe xét được tinh vi [48]. Về mùa Xuân mạch Phù, lờ lờ như cá lượn gần trên mặt sóng, về mùa Hạ, mạch hiện ngay trên cơ phu (da) “chứa chan” như muôn vật có thừa, về mùa Thu, mạch hiện ở dưới cơ phu, như loài sâu sắp ẩn nấp vào trong hang kín, về mùa Đông, án nặng tay xuống gần xương, mạch kín đáo như loài sâu đã ẩn trong hang, người quân tử phải giữ gìn, không nên hoang toàng [49] Cho nên, người chẩn mạch, phải biết sự hư thực của âm dương Tàng phủ ở bên trong, lại biết khi tiết của bốn mùa và âm dương ở bên ngoài nóù tuần hoàn như thế nào...Sáu điều trên đó, là cái Đại pháp của phép chẩn mạch (1) [50] Tâm mạch, bựt lên tay, kiên (tức là có lực) mà trường sẽ mắc bệnh thiệt quyển (lưỡi cong lên, khác với rụt) không nói được. Nếu nhuyễn (mềm) mà tán (mạch bất túc, khác với trên là thái quá) sẽ sinh chứng tiêu khát, trong vòng 10 ngày sẽ khỏi [51]. Phế mạch bựt lên tay, kiên mà trường, sẽ mắc bệnh thóa huyết (nhổ ra máu). Nếu nhuyễn mà tán, mồ hôi sẽ chảy ra đầm đìa, Phế khi suy yếu [52]. Can mạch bựt lên tay, kiên mà trường, sắc mặt không tái xanh sẽ đau như bị ngã, vì có huyết tích ở dưới hiếp (lườn), gây nên chứng suyễn nghịch, nếu nhuyễn mà tán, sắc mặt lại bóng nhoáng, đó là chứng giật ẩm (uống nước nhiều, ràn ra). Chứng đó gây nên bởi khi khát, uống nhiều nước, nước chảy trái đường, ràn ra bì phu [53]. Vi mạch bựt lên tay, kiên mà trường, sắc mặt đỏ bừng, sẽ mắc bệnh hay đùi đau như gãy, nếu nhuyễn mà tán, sẽ là chứng Thực tý (tức đau dạ dầy) [54]. Tỳ mạch bựt lên tay, kiên mà trường, sắc vàng úa, sẽ mắc bệnh thiểu khí (ít hơi, động làm là thở, mà hơi thở ngắn) nếu nhuyễn mà tán, sắc mặt không bóng, sẽ là chứng túc hành thũng (từ đầu gối trở xuống sưng to như phù) [55]. Thận mạch bựt lên tay, kiên mà trường, sắc mặt vàng kiêm cả đỏ, sẽ mắc bệnh lưng đau như gãy, nếu nhuyễn mà tán thì sẽ mắc bệnh thiểu huyết (ít máu) khí lòng hồi phục) [56]. Hoàng Đế hỏi: Chẩn được Tâm mạch mà “cấp”, như thế là bệnh gì? và bệnh hình như thế nào? [57] Kỳ Bá thưa rằng: Bệnh đó tên Tâm sán, dưới thiếu phúc sẽ có vật hữu hình... [58] Sao biết vậy? Tâm thuộc về mẫu tàng (giống đực) Tiểu trường là chức Sứ, cho nên biết dưới thiếu phúc có vật hữu hình (1) [59]. Hoàng Đế hỏi: Chẩn được Vi mạch, bệnh hình như thế nào? [60] Kỳ Bá thưa rằng” Chẩn Vị mạch, nếu mạch thực sẽ là bệnh Trướng, nếu mạch hư, sẽ là bệnh Kiệt [61]: Hoàng Đế hỏi: Sau khi bệnh đã thành, lại còn biến ra chứng gì? [62] Kỳ Bá thưa rằng : Nếu do phong gây nên bệnh, sẽ biến thành chứng Hàn, nhiệât nếu do [63]. Đản (thấp nhiệt) gây nên bệnh, sẽ biến thành chứng Tiêu trung [64]. Nếu do quyết (khí nghịch, tay chân giá lạnh) gây nên bệnh, sẽ biến thành các chứng ở trên đầu lâu thời thành chứng xôn tiết (ăn vào lại đi tả) [65].Trong huyết mạch bị phong lọt vào sẽ thành chứng Lệ (phong vào huyết mạch biến thành trùng, hiện ra các chứng hửi lở) [66]. Sự biến hóa của bệnh rất nhiều, nói không thể siết [67]. Hoàng Đế hỏi: Các chứng mụn sưng, co gân, đau xương...Nguyên nhân bởi đâu? [68] Kỳ Bá thưa rằng: Những chứng sưng đó bởi hàn khí, vả sự biến của bát phong (gió ở 8 phương) [69]. Hoàng Đế hỏi: Nên điều trị thế nào? [70] Kỳ Bá thưa rằng: Đó là chứng bệnh thuộc về thời khí của bốn mùa, nên lấy cái “sở thắng” để trị nó (1) [7i]. Hoàng Đế hỏi: Người đã sẵn bệnh cũ làm thương tổn đến sắc mạch của năm tàng...Làm thế nào có thể biết được là bệnh đã lâu và bệnh đã mắc?... [72] Kỳ Bá thưa rằng: Xét ở mạch thấy “tiểu” (hư) mà sắc mặt không biến khác...Như thế là tân bệnh [73]. Xét ở mạch và năm sắc đều biến khác, như thế là cựu bệnh [74]. Xét ở mạch và năm sắc đều không biến khác, như thế là tân bệnh [75]. Can với Thận mạch cùng hiện ra, sắc mặt tái xanh lại đỏ...Đó là gây nên bởi sự hủy thương (như uất ức quá độ), nhưng chưa thấy chứng gì kiến huyết (thấy có máu, như gãy, đứt, hoặc khạc nhổ v.v...). Nếu đã kiến huyết, sẽ lại là có cả chứng thấp... [76] Hai bên Xích bộ thuộc về qúi hiếp (dưới sườn cụt). Xích ngoại để nghe mạch của Thận, Xích nóùäi để nghe mạch của Phúc [77]. Từ Tả xích mà dẫn lên Tả quan, ngoại để nghe mạch của Can, “nóùäi” để nghe mạch của Cách [78]. Từ Hữu xích dẫn lên Hữu quan, ngoại để nghe mạch của Vị, nóùäi để nghe mạch của Tỳ) [79]. Từ Tả quan dẫn lên Tả thốn, ngoại để nghe mạch của Phế, nóùäi để nghe mạch ở Hung bộ [80]. Từ Tả quan dẫn lên Tả thốn, ngoại để nghe mạch của Tâm, nóùäi để nghe mạch của Chiên trung [81]. Mạch ở “tiền” để nghe các bệnh thuộc về tiền, mạch ở “hậu” để nghe các bệnh thuộc về “hậu” (1) [82]. Thượng cánh thượng (từ xích, quan miết tay lên tới Ngư tế) để xét những chứng trạng ở Hầu (cuống họng) và trong Hung [83]. Hạ cánh hạ (từ Thốn, quan miết tay xuôi vào xích trạch) để xét những chứng trạng từ Thiếu phúc, yêu, cổ (vế), tất (đầu gối), và bộng chân [84]. Mạch thể thô đại, là Aâm bất túc, Dương hữu dư, sẽ gây nên chứng nhiệt trung [85]. Mạch, lúc lại nhanh, lúc đu chậm, trên thực, dưới hư...sẽ gây nên chứng quyết, và bệnh ở đầu (điên tật). Nếu lúc lại chậm, lúc đi nhanh, trên hư, dưới thực, thuộc về bệnh ác phong [86]. Phàm trúng phải ác phong, do dương khí phải chịu (Dương khí bị tà, thời chính khí hư suy, cho nên mạch lúc lại chậm, và trê hư, tà khí hãm vào bên trong, cho nên mạch lúc đi nhanh, và dưới thực) [87]. Có khi thấy mạch hiện ra đều Trầm, Tế và Sác...Đó là chứng quyết của Thiếu âm. Nếu Trầm, Tế Sác và kiêm cả Tán...Đó là chứng hàn, nhiệt. Nếu Phù mà lại Tán...Đó là chứng choáng váng đi đứng không vững [88]. Các mạch Phù mạ bệnh nhân không Táo (Nóùng nảy) đều thuộc về Dương, là bệnh Nhiệt. Nếu bệnh nhân lại có vẻ táo, đều thuộc về Thủ Tam dương [89]. Các mạch tế mà lại trầm, đều thuộc về Aâm phận, sẽ là chứng đau ở xương, nếu bệnh nhân lại có vẻ tỉnh...là thuộc về Túc tam âm [90]. Mạch thấy Sác và Động, thỉnh thoảng lại có một Đại, đó là bệnh thuộc Dương. Bệnh nhân sẽ hạ tiết hoặc tiện ra nùng huyết (mủ và máu) [91]. Phàm án mạch người có bệnh, thấy mạch sắc là Dương khí hữu dư, thấy mạch Hoạt, là Aâm khi hữu dư. Dương khí hữu dư, sẽ là chứng mình nóng, không có hãn [92]. Aâm khi hữu dư, sẽ là chứng nhiều hãn mà mình lạnh (hàn) [93]. Nếu âm dương đều hữu dư, sẽ là không có hãn mà mình hàn [94]. Aùn vào mạch, đẩy cho luồng mạch ra “ngoại”, mà mạch vẫn hướng vào “nóùäi” không ra “ngoại” đó là vì chứng tích ở Tâm, Phúc [95]. Đẩy cho luồng mạch vào “nóùäi”, mà mạch vẫn hướng ra “ngoại” không vào “nóùäi”, đó là vì có chứng Nhiệt [96]. Đẩy cho luồng mạch hướng lên “trên” mạch vẫn cứ ở “trên” mà không xuống dưới”, đó là vì có chứng lạnh ở yêu và túc [97]. Đẩy cho luồng mạch hướng xuống “dưới”, mạch vẫn cứ ở “dưới” mà không lên “trên” đó là vì có chứng đau ở đầu và cổ [98]. Aùn mạnh tay xuống tới giáp xương, mà mạch khi`ít...Đó là vì mắc chứng yêu, tích (xương sống) đau, và ở mình có kiêm cả chứng tê (bệnh thuộc về âm) [99].
Thiên mười tám: BÌNH NHÂN KHI TƯỢNG LUẬNHoàng Đế hỏi rằng: Mạch của bình nhân (người vô bệnh) như thế nào? [1] Kỳ Bá thưa rằng: Người ta một lần hô (thở ra), mạch động tới 2 lần, một lần hấp (hút vào), mạch cũng động tới 2 lần. Nhân sự hô hấp để định hơi thở, và xen (nhuận) với lúc ngừng thở, mạch động tới 5 lần, như thế là bình nhân. Bình nhân tức là người vô bệnh (1) [2]. Nên lấy người vô bệnh để chẩn mạch người có bệnh. Nhưng lúc chẩn, phải giữ hơi thở của mình cho điều hòa, mới biết được mạch “động” của người kia đúng hay không đúng [3]. Phàm người, một hô, mạch động 3 lần, một hấp mạch động 3 lần...Đó là táo cấp (tức thái quá), ở xích bộ có nhiệt, là bệnh ôn, nếu xích bộ không nhiệt, mạch lại có vẻ hoạt, đó là bệnh phong, nếu lại có vẻ sắc, đó là bệnh Tý (bệnh thuộc âm) [4]. Phàm người, mộ hô, mạch động 4 lần một hấp mạch động 4 lần trở lên, đó là tử mạch, nếu mạch tuyệt không “chí” cũng chết, mạch lúc thưa, lúc sác, cũng chết [5]. Phàm bình nhân, khi phát sinh từ Vị, Vị là thường khi của bình nhân [6].Người không có Vị khi gọi là “nghịch”. Nghịch cũng chết [7].Mạch án về mùa xuân, có Vị khi mà mạch hơi Huyền là bình [8]. Huyền nhiều, Vị ít, đó là bệnh ở Can [9]. Chỉ huyền, không có Vị khí, sẽ chết [10]. Có Vị khí mà mạch thể có vẻ mao, tới mùa thu sẽ phát bệnh, nếu mao nhiều, bệnh sẽ phát ngay [11]. Chân khí của tàng phân tán khắp ở Can, tức là những khí ở cái cân, mạc (gân và da màng) bao bọc ở bên ngoài can (1) [12]. Mạch án về mùa hạ, có Vị khí, mà hơi “Câu” (mạch tượng của mùa hạ), là bình. Nếu câu nhiều, Vị khí ít là Tâm bệnh: chỉ câu mà không có Vị khí, sẽ chết [13]. Có vị khí mà mạch thể có vẻ “thạch” tới mùa Đông sẽ phát bệnh, nếu “thạch nhiều, bệnh sẽ phát ngay [14]. Chân khí của tàng thông lên Tâm, vì Tâm tàng cái khí của huyết mạch [15]. Mạch án về mùa Trường hạ, có Vị khí mà hơi nhuyễn nhược là bình. Nếu “nhược” nhiều Vị khí ít là Tỳ bệnh [16]. Mạch thể chỉ có “đại” mà không có Vị khí sẽ chết [17]. Nhuyễn nhược là lại kiêm có vẻ Thạch, tới mùa đông sẽ phát bệnh. Nếu “nhước” nhiều, sẽ phát bệnh ngay [18]. Chân khí của tàng thấm thuần ở Tỳ, vì Tỳ tàng cái khí của cơ nhục [19]. Mạch án về mùa Thu, có Vị khí mà hơi mao, là bình. Nếu mao nhiều. Vị khí ít là phế bệnh. Nếu chỉ thấy mao, không có Vị khí sẽ chết [20]. Mạch mao mà lại kiêm Huyền, tới mùa Xuân sẽ phát bệnh, nếu Huyền nhiều, sẽ phát bệnh ngay [21]. Chân khí của Tàng cao ở tận phế, để dẫn hành vinh, vệ và âm dương [22]. Mạch án về mùa Đông, có Vị khi mà hơi Thạch, là bình. Nếu Thạch nhiều, Vị khí ít là thận bệnh. Nếu chỉ Thạch, không có Vị khí sẽ chết [23].Thạch mà lại kiêm cả Câu, sẽ phát bệnh về mùa Hạ, nếu Câu nhiều, sẽ phát bệnh ngay [24]. Chân khí của Tàng thấp ở Thận, Thận tàng cái khí của cốt tủy [25]. Đại lạc của Vị, tên là Hư lý, nóù suốt lên Cách, chằng ngang vào Phế, vòng xuống phía dưới tả nhũ (vú bên trái), lúc nóù động có thể “ứng y” (áo mạch sát vào mình, khi mạch động, chạm lên áo = bằng hình dung sự động mạch). Mạch đó để nghe Tông khí (tức Vị khí) [26]. Nếu suyễn nhiều (Phế), mà mạch ở Hư lý thường bị tuyệt đó là bệnh tại Chiên trung và Hoành lạc bị tích trệ, nếu tuyệt hẳn không “chí”, sẽ chết; nếu động quá đến nóùãi “ứng y”, đó là Tông khí muốn tiết ra ngoài (tức là mạch chết) [27]. Muốn biết mạch Thốn khẩu, thái quá với bất cập [28]. Nếu mạch ở Thốn khẩu, chỉ “đoản” đúng vào ngón tay, đó thuộc về bệnh đầu thống [29]. Mạch ở Thốn khẩu, đúng vào ngón tay, mà “trường” đó thuộc về bệnh đau ở xương ống chân [30]. Mạch ở Thốn khẩu đúng vào ngón tay, mà bật mạnh dồn lên, đó thuộc về bệnh đau ở vai và lưng [31]. Mạch ở Thốn khẩu Trầm mà Kiên, tức là bệnh ở bộ phận trong [32]. Mạch ở Thốn khẩu Phù mà thịnh, tức là bệnh ở bộ phận ngoài [33]. Mạch ở Thốn khẩu Trầm mà Nhược, thuộc về bệnh hàn [34] nhiệt và Sán, Giả, đau ở Thiếu phúc. Mạch ở Thốn khẩu Trầm mà hoành, thuộc về dưới hiếp có tích và trong bụng có vật tích nằm ngang mà đau [35]. Mạch ở Thốn khẩu Trầm mà lại có suyễn (thở gấp, hổn hển), thuộc về chứng hàn nhiệt (sốt rét, sốt nóùng) [36]. Mạch thịnh, hoạt mà kiên, là bệnh ở bộ phận ngoại, mạch tiểu thực mà kiện, là bệnh ở bộ phận nóùäi [37]. Mạch tiểu, nhược và sắc, là cửu bệnh [38]. Macïh phù hoạt mà tật, là tân bệnh [39]. Mạch cấp là có chứng “sán, giả” đau ở Thiếu phúc, mạch hoạt là Phong [40]. Mạch sắc là Tỳ [41]. Mạch hoãn mà hoạt là chứng nhiệt trung [42]. Mạch thịnh mà khẩn là chứng trướng [43]. Mạch thuận theo âm dương, bệnh dễ khỏi, mạch trái ngược âm dương, bệnh khó khỏi, mạch thuận với sinh khí của bốn mùa, bệnh dễ khỏi, mạch trái với sinh khi của bốn mùa mà lại “không gián tàng” bệnh khó khỏi (1) [44]. Cánh tay có nhiều mạch máu xanh, gọi là thoát huyết [41]. Mạch ở xích bộ Hoãn bộ và sắc, gọi là giải nóùïa (bệnh tại Tỳ [42]. Lúc nằm yên mà mạch thịnh, cũng gọi là thoát huyết [43]. Xích bộ sắc mà mạch lại Hoạt, là chứng nhiều mồ hôi [44]. Xích bộ hàn mà mạch lại Tế, sẽ là chứng Hậu tiết (ăn xong, đi tả ngay) [45]. Mạch ở Xích bộ thô và thường nóùng, thuộc về chứng Nhiệt trung [46]. Phàm thấy mạch ở cổ động lên bật bật, thở suyễn và khái, chứng thuộc về thủy [47]. Mi mắt hơi thũng phồng lên như ngọa tàm (con tằm nằm), chứng thuộc về thủy [48]. Nước tiểu vàng đỏ, ưa nằm, là chứng Hoàng đản [49]. Aên rồi mà bụng vẫn như đói, là chứng Vị đản [50]. Mặt sưng phù ra , là chứng phong [51]. Bộng chân sưng nặng là chứng Thủy [52]. Lòng trắng mắt vàng...cũng là chứng Hoàng đản [53]. Đàn bà, mạch thuộc kinh Thái âm động nhiều, là có thai (1) [54]. Mạch có khí hoặc nghịch hoặc thuận với bốn mùa. Dù chưa hiện mạch của bản tàng, Xuân, Hạ mà mạch lại xấu (giống như tế), Thu Đông mà mạch lại Phù Đại… Như thế là nghịch với bốn mùa [55]. Chứng phong nhiệt mà mạch lại Tĩnh (nên phù động), chứng tiết và thoát huyết, mà mạch lại Thực (nên hư tán), bệnh ở trong mà mạch lại Hư (nên trầm thực) bệnh ở ngoài mà mạch lại kiên sắc (nên thăng phù)... Đều khó chữa, vì là trái với bốn mùa [56]. Con người lấy thủy cốc làm gốc, nếu tuyệt thủy cốc thời tất phải chết [57]. Mạch không có Vị khí (tức khí của thủy cốc) cũng chết [58]. Phàm gọi là không có Vị khí (tức khí của Thủy cốc) cũng chết. Phàm gọi là không có Vị khí, là chỉ thấy có chính mạch của chân tàng mà không có vẻ hòa hoãn làVị khí xen vào. Không những thế, mà Can không huyền, Thận không Thạch v.v...cũng là không được Vị khí [59]. Mạch ở kinh Thái dương đến, Hồng Đại mà Trường [60]. Mạch ở kinh Thiếu dương đến, lúc sác, lúc sơ, lúc đoản, lúc trường [61]. Mạch ở kinh Dương minh đến, Phù Đại mà Đoản [62]. Tâm vô bệnh, mạch hiện ra, lườn lượt không đứt như chuỗi ngọc, như dây chuyền...Thuộc về mùa Hạ lấy Vị khí làm gốc [63]. Nếu có bệnh, mạch khớp khớp chấp nóùái, có lúc hơi cong, nếu trước cong mà sau không động, như cầm lưỡi câu... như thế là Tâm chết [64]. Phế vô bệnh, mạch hiện ra êm đềm nhẹ nhàng như chiếc lá rơi... Thuộc mùa Thu, lấy Vị khí làm gốc [65]. Nếu có bệnh, không lên không xuống, như phảy lông gà... Nếu lại như vật nóùåi lềnh bềnh, không gốc không rễ, như gió thổi chiếc lông, trống không tán loạn... Như thế là Phế chết [66]. Can vô bệnh, mạch hiện ra mềm mại dịu dàng, như vuốt ngọn Tràng. (Tràng, tre dài dùng làm Tràng, trên đầu nhỏ và lướt mền). Thuộc mùa Xuân, lấy Vị khí làm gốc [67]. Nếu có bệnh, đầy đặc mà hoạt, như nắm trường can (trướng can tức là “tràng”, nhưng đây nắm vào thân chứ không vuốt ngọn, có vẻ cứng rắn hơn)... nếu lại cấp mà cứng, như giương dây cung (huyền), như thế là Can chết [68]. Tỳ vô bệnh, mạch hiện ra hòa nhu mà tương ly, bước đi như gà (trong hòa nhu mà có vẻ cách nhau không liền). Thuộc mùa Trường Hạ, lấy Vị khí làm gốc [69]. Nếu có bệnh, đầy đặc mà vững chắc, không có hòa như, chuyển du kém sức (tức Tỳ khí không tán bố ra các Tàng khác) nếu lại cứng và sắc, như đầu mỏ quạ, như móng chân chim, thánh thót như nhà dột, cuồn cuộn như nước trôi. Như thế là Tỳ chết [70]. Thận vô bệnh, mạch hiện ra chìm nặng mà linh động như nóùåi mà trong không, án nặng tay thời kiên. Thuộc mùa Đông, lấy Vị khí làm gốc [71]. Nếu có bệnh, như lôi dây sắn, càng án mà càng kiên, nếu lại dằng mạnh như giật dây, trình trịch như ném đá... Như thế là Thận chết [72].
Thiên mười chín: NGỌC CƠ CHÂN TÀNG LUẬNHoàng Đế hỏi rằng: Mạch mùa Xuân như huyền... Thế nào gọi là huyền? [1] Kỳ Bá thưa rằng: Mạch mùa Xuân tức là Can mạch, thuộc Đông phương mộc, muôn vật bắt đầu sinh ra từ đó, cho nên mạch khí hiện ra nhuyễn, nhược, khinh, hư mà hoạt, ngay thẳng mà dài, nên gọi là Huyền. Nếu mạch tượng trái thế, sẽ mắc bệnh [2]. Hoàng Đế hỏi: Thế nào là trái? [3] Kỳ Bá thưa rằng: Mạch khí lúc lại thực mà cường, là thái quá, bệnh sẽ phát ở bên ngoài, mạch khí lúc lại không thực mà “vì”, là bất cập, bệnh sẽ phát ở bên trong [4]: Hoàng Đế hỏi: Mạch mùa Xuân, thái quá và bất cập, phát ra chứng hậu thế nào? [5] Kỳ Bá thưarằng: Thái quá thời khiến người hay quên, choáng váng chóng mặt, và đau ở đầu. Nếu là bất cập thời đau ở hung xuất sang lưng, xuống cả hai bên sườn, tức đầy khó chịu [6]. Hoàng Đế hỏi: Mạch mùa Hạ như Câu... Thế nào gọi là Câu? [7] Kỳ Bá thưa rằng: Mạch mùa Hạ, tức là mạch của Tâm, thuộc Nam phương Hỏa, muôn vật nhờ đó để thịnh trưởng. Cho nên mạch khílúc lại thịnh lúc đi suy, nên mới gọi là Câu. Nếu mạch tượng trái thế, sẽ mắc bệnh [8] Hoàng Đế hỏi: Thế nào là trái? [9] Kỳ Bá thưa rằng: Mạch khí lúc lại thịnh, lúc đi cũng thịnh, là thái quá, bệnh sẽ phát ở bên ngoài, mạch khí lúc lại không thịnh, lúc đi lại thịnh là bất cập, bệnh sẽ phát ở bên trong [10]. Hoàng Đế hỏi: Mạch mùa Hạ thái quá và bất cập, phát ra chứng hậu thế nào? [11] Kỳ Bá thưa rằng: Thái quá thời khiến người mình nóùng và đau ở ngoài da, hoặc sinh chứng lỏ lói, bất cập thời khiến người Tâm phiền, ở bộ phận trên thời phát chứng ho và nhổ, ở bộ phận dưới thời phát chứng khí tiết [12]: Hoàng Đế hỏi: Mạch mùa Thu như phù... Thế nào gọi là phù? [13] Kỳ Bá thưa rằng: Mạch mùa Thu tức là mạch của Phế, thuộc Tây phương Kim, muôn vật nhờ đó tới thời kỳ “thâu thành”. Cho nên mạch khí lúc lại, khinh hư mà phù, lúc lại thời cấp, lúc đi thời tán, nên gọi là Phù. Nếu mạch tượng trái thế, sẽ mắc bệnh [14]. Hoàng Đế hỏi: Thế nào là trái? [15] Kỳ Bá thưa rằng: Mạch khí lúc lại như mao, ở giữa kiên, hai bên hư, là thái quá, bệnh sẽ phát ở bên ngoài, mạch khí lúc lại như mao mà vi, là bất cập, bệnh sẽ phát ở bên trong [16]. Hoàng Đế hỏi: Mạch mùa Thu, thái quá và bất cập, chứng hậu phát ra thế nào? [17] Kỳ Bá thưa rằng: Thái quá thời khiến người khí nghịch, lưng đau và bực tức khó chịu, bất cập thời khiến người suyễn, hơi thở thiếu khí mà ho, ở bên trên đôi khi thấy có máu, có khi khí hạ nghịch, là rên kêu ầm ỹ[18]. Hoàng Đế hỏi: Mạch mùa Đông như Doanh... Thế nào gọi là Doanh? (Ở yên lặng, chìm xuống, tức là Thạch) [19]. Kỳ Bá thưa rằng: Mạch mùa Đông, tức là mạch của Thận, thuộc Bắc phương thủy. Muôn vật nhờ đó mà bế tàng, cho nên mạch khí lúc lại trầm mà bác (bựt mạnh lên), nên gọi là Doanh. Nếu mạch tượng trái thế, sẽ mắc bệnh [20]. Hoàng Đế hỏi: Thế nào là trái? [21] Kỳ Bá thưa rằng: Mạch khí lúc lại như vụt vào đá (đàn thạch) là thái quá, bệnh sẽ phát ở bên ngoài, đến lúc đi lại chậm rãi như đếm, là bất cập [22]. Hoàng Đế hỏi: Mạch mùa Đông thái quá và bất cập, chúng hậu phát ra thế nào? [23] Kỳ Bá thưa rằng: Thái quá thời khiến người trễ nải, đường xương sống đau, thiếu khí, không muốn nóùi, bất cập thời khiến người trong lòng bào hao như đối, phía dưới chỗ xương sườn cụt giá lạnh, trong xương sống đau, Thiếu phúc đầu, tiểu tiện đổi sắc [24]. Hoàng Đế hỏi: Theo thứ tự của bốn mùa các tàng đều có sự thuận nghịch khác nhau... Còn Tỳ, thời chủ về gì? [25] Kỳ Bá thưa rằng: Tỳ mạch thuộc Thổ, nóù là Cô tàng (đứng riêng một mình) để thấp nhuần ra bốn bên [26]. Hoàng Đế hỏi: Nếu vậy thời sự “thiện” hay “ác” của Tỳ có thể biết được chăng? [27] Kỳ Bá thưa rằng: Cái thiện không thể thấy (1) chỉ cái ác có thể thấy [28]. Hoàng Đế hỏi: Thấy cái ác như thế nào? [29] Kỳ Bá thưa rằng: Mạch khí lúc lại, như nước chảy dồn, là thái quá, bệnh sẽ phát ở bên ngoài, nếu chỉ như chim mổ, lúc có lúc ngừng là bất cập, bệnh sẽ phát ở trong [30]. Hoàng Đế hỏi: Mạch của tỳ, thái quá và bất cập, chứng hậu phát ra thế nào? [31] Kỳ Bá thưa rằng: Thái quá thời khiến người tứ chi không cử động được, bất cập thời khiến người chín khiếu không thông, gọi là Trùng cường (2) [32]. Năm Tàng, thụ khí ở cái “sở sinh”, lại truyền cho cái “sở bất thắng” (đã chua nghĩa ở trên). Khí ký túc ở cái nơi “sở sinh”, mà bị chết ở cái nơi “sở bất thắng”, bấy giờ mới chết. Đó là vì khí nghịch hành (đi ngược) nên mới chết [33]. Can thụ bệnh khí ở tâm, truyền đi đến Tỳ, khí ấy ký túc ở Thận, đến Phế thời chết. [34]. Tâm thụ bệnh khí ở Tỳ, truyền đi đến Phế, khí ấy ký túc ở Can đến Thận thời chết [35]. Tỳ thụ bệnh khí ở Phết, truyền đi đến Thận, khí ấy ký túc ở Tâm đến Can thởi chết [36]. Phế thụ bệnh khí ở Thận, truyền đi đến Can, khí ấy ký túc ở Tỳ, đến Tâm thời chết [37]. Thận thụ bệnh khí ở Can, truyền đi đến Tâm, khí ấy ký túc ở Phế, đến Tỳ thời chết… [38]. Đó đều là nghịch [39]. Suốt một ngày một đêm, chia làm 5 Tàng... Để đoán biết sống hay chết, sớm hay muộn... [40] Hoàng Đế nóùi rằng: Năm Tàng cùng thông nhau, truyền đều có thứ tự, năm Tàng có bệnh, thời đều truyền tới cái “sở thắng”. nếu không điều trị, theo phép, hoặc 3 tháng, hoặc 6 tháng, hoặc 3 ngày, hoặc 6 ngày... Truyền khắp năm Tàng thời sẽ chết. Đó là cái thứ tự thuận truyền cho cái “sở thắng” [41]. Cho nên nóùi rằng: phân biệt được dương tàng sẽ biết được bệnh nóù từ đâu lại, phân biệt được âm tàng, sẽ biết được cái thời kỳ sống hay chết [42]. *** Phong, là một thứ đứng đầu của trăm bệnh. Giờ phong hàn phạm vào người, khiến người hào mao đều đứng thắng, bì phu bị ứ trệ lại mà thành chứng nhiệt (sốt nóùng). Gặp trường hợp đó, nên dùng phép làm phát hãn đề phong tà tiết ra ngoài [43]. Hoặc tý, bất nhân (ngoài da tê dại cấu không biết đau), sưng đau... Gặp trường hợp đó, nên dùg nước nóùng để chườm mặt, hoặc dùng lửa cứu, hoặc dùng châm thích cho tiết bỏ huyết độc [44]. Nếu không chữa bệnh tàsẽ phạm vào Phế thành chứng Phế tý, gây nên ho, khí nghịch lên trên [45]. Nếu không chữa. Phế sẽ truyền mà lấn sang Can, thành chứng Can tý, một tên là Quyết sẽ đau ở sườn và Thổ. Gặp bệnh đó nên dùng phép “án”và thích [46]. Nếu không chữa Can sẽ truyền sang Tỳ, thành chứng Tỳ phong gây nên bệnh Đau (hỏa đản) trong bụng nóng Tâm phiền, da vàng. Gặp bệnh đó, nên dùng phép “án” dùng thuốc hoặc dùng phép tắm [47]. Nếu không chữa tỳ thấy nhiệt sẽ truyền sang Thận, thành chứng Sán Hà, trong Thiếu phục thấy nhiệt nóùng nảy và đau, tiểu ra trắng như nước gạo. Lại một Tên là Cổ. Gặp bệnh đó nên dùng phép “án” và thuốc uống [48]. Nếu không chữa, Thận sẽ truyền sang Tâm, thành chứng gân mạch co rút, mà đau. Gọi là Khiết. Gặp bệnh đó nên dùng phép cứu, hoặc thuốc uống. Nếu không chữa, trong vòng mười ngày sẽ chết [49]. Thận hoặc truyền lên Tâm, Tâm liền quay trở lại mà truyền lên Phế, phát chứng hàn nhiệt. Theo phép, ba năm sẽ chết. Đó là thứ tự của bệnh (1) [50]. Nhưng nếu là bệnh “thốt phát” bỗng dưng phát ra rất chóng), không cần phải theo phép tương truyền để điều trị [51]. Hoặc có khi truyền hóa không theo thứ tự, như ưu, khủng, bi, hỷ, nóä...Vì nóù truyền không có thứ tự, nên thường gây nên bệnh lớn [52]. Tỉ như hỷ quá thời Tâm hư, Thận khí sẽ thừa cơ mà lấn, nóä [53]. Quá thời Can hư, Phế khí sẽ thừa cơ mà lấn [54]. Tư quá thời Tỳ hư, Can khí sẽ thừa cơ mà lấn [55]: Khủng quá thời Thận hư, Tỳ khí sẽ thừa cơ mà lấn [56]. Ưu quá thời Phế hư, Tâm khí thừa cơ mà lấn... Như một Tàng hư mà bị lấn, thời sẽ truyền qua cả 5 Tàng. Cho nên bệnh có 5 thứ, mà 5 tàng lần biến...Vậy năm lần 5, sẽ thành 25. Vậy sự truyền hóa của 5 Tàng đó, cũng đều là lấn cái “sở thắng” vậy [58]. Đại cốt (tức xương tay, xương đầu) khô đét, đại nhục (tức hai mông) rúm lại, trong hung khí nghẽn, hơi thở khó khăn, mỗi khi thở phải so vai rụt cổ... Chỉ 6 tháng sẽ chết [59]. Thấy mạch của Chân tàng hiện ra, mới có thể hẹn đúng ngày nào. (Như bệnh ở Tâm, sẽ tính đến ngày Nhâm qúi thì chết v.v... Tức là ngày tương khắc) [60]. Đại cốt khô đét, đại nhục rúm lại, trong hung khí nghẽn, hơi thở khó khăn. Đau ở trong rút lên vai và cổ. Chỉ trong một tháng sẽ chết. [61]. Thấy mạch của chân tàng hiện ra, mới có thể hạn đúng ngày nào (tức ngày Canh, Tân) [62]. Đại cốt khô đét, hai nhục rúm lại, trong hung khí nghẽn, đau ở vai rút lên vai cổ, mình nóùng, thịt tiêu mòn hết [63]. Thấy mạch của chân tàng hiện ra chỉ trong vòng mười ngày sẽ chết (Đoạn này nói bệnh ở Phế, truyền sang tâm thời chết) [64]. Đại cốt khô đét, đại nhục rúm lại, trong hung khí nghẽn, xương tủy hao mòn, cử động càng suy [65]. Thấy mạch của Chân tàng hiện ra, trong vòng một năm sẽ chết, và cũng mới có thể định được hẳn là ngày nào (như chết về ngày giáp, ất) [66]. Đại cốt khô đét, đại nhục rúm lại, trong hung khí nghẽn, trong bụng đau, trong Tâm khó chịu, lưng cổ và mình nóùng, thịt tiêu mòn hết, mắt lõm, trong không rõ. Chết ngay. Nếu còn trông thấy, tới ngày “sở bất thắng” sẽ chết (1) [67]. Thân thể đã hư quá, tà khí vụt đến, năm Tàng vít lấp, mạch đạo không thông, khí không đi lại, như người chết đuối, không thể hẹn ngày [68]. Nếu mạch tuyệt không lại, hoặc một “tức” mà năm sáu chí, dù hình nhục không thoát, chân tàng không hiện, cũng chết [69]. Chân Can mạch hiện ra, trong ngoài đều “nhăng” như lăn tay lên lưỡi dao, “lăn lẳn” như để lên trên giây đàn sắc mặt trắng xanh không bóng lông, tóc rơi rụng... Đó là bệnh chết[70] . Chân Tâm mạch hiện ra, cứng mà bựt lên tay, như lăn tay lên chuỗi hạt châu, sắc mắt tía đen không bóng, lông, tóc rơi rụng... Đó là chứng chết [71]. Chân Thận mạch hiện ra, Đại mà hư, như cầm lông chim phớt quệt vào da, Sắc mặt trắng đỏ không bóng, lông, tóc rơi rụng... Đó là chứng chết [72]. Chân Thận mạch hiện ra, bật mạnh lên lại đứt, như vút queo vào đá rắn chắc không trùng... Sắc mặt đen vàng không bóng, lông tóc hơi rụng… Đó là chứng chết [73]. Chân Tỳ mạch hiện ra, nhược mà lúc sác, lúc xơ, sắc mặt vàng xanh không bóng, lông, tóc rơi rụng... Đó là chứng chết [74]. Phàm chân tàng mạch hiện ra, phần nhiều chết, không chữa được [75]. Hoàng Đế hỏi rằng: Thấy chân tàng mạch hiện ra, mà nhận là chứng chết, là cớ sao? [76] Kỳ bá thưa rằng: Năm tàng đều nhờ khí ở Vị. Vậy Vị là gốc của năm Tàng. Tàng khí không thể tự mình dẫn đến Thái âm, phải nhờ có Vị khí mới đến được. Năm Tàng lại phải nhờ Vị khí mới hiện ra được cái mạng tượng theo đúng với mùa mà dẫn đến Thái âm. Cho nên, mỗi khi tà khí mà thắng được, tức là tinh khí đã bị suy trước [77]. Người mắc bệnh nặng, Vị khí không thể cùng dẫn đến Thái âm, nên Chân tàng mới một mình hiện ra (tức trong mạch không có Vị khí). Sở dĩ như vậy, là do bệnh khí nóù thắng. Nên mới là chứng chết [78]. Hoàng Đế nóùi rằng: Phàm trị bệnh phải xét hình, khí: Sắc có bóng hay không bóng, mạch thịnh hay suy, bệnh mới hay cũ...bấy giờ sẽ chữa đừng để lỡ thời [79]. Hình với khí hợp nhau, có thể chữa, sắc bóng và nóåi ở ngoài da, có thể chữa, mạch thuận với bốn mùa, có thể chữa, mạch nhược mà hoạt là có vị khí, có thể chữa... Nên theo mùa mà dùng phép thích [80]. Hình với khí trái nhau, khó chữa, sắc nhợt không bóng, khó chữa, mạch thực mà kiên, khó chữa, mạch trái bốn mùa, khó chữa. Phải xét những nóãi khó đó, để bảo rõ bệnh nhân [81]. Phàm nóùi về trái với bốn mùa, tỉ như: mùa Xuân thấy mạch của Phế, mùa Hạ thấy mạch của Thận, mùa Thu thấy mạch của Tâm, mùa Đông thấy mạch của Tỳ... Khi mạch hiện ra đều Trầm sắc không chút Vị khí... Đó đều là trái bốn mùa [82]. Chưa thấy mạch hình của Tàng, về mùa Xuân mùa Hạ mà mạch Trầm, Sắc, về mùa Thu mùa Đông mà mạch Phù, Đại... Cũng là trái với bốn mùa [83]. Bệnh nhiệt mà mạch tĩnh, bệnh tiết mà mạch đại, thoát huyết mà mạch thực, bệnh ở bộ phận trong mà mạch thực và kiên, bệnh ở bộ phận ngoài mà mạch lại không thực và kiên... Đều khó chữa [84]: Hoàng Đế hỏi rằng: Tôi nghe nhận mạch hư thực để quyết bệnh sống hay chết... Xin cho biết rõ nguyên nhân.... [85] Kỳ Bá thưa rằng: Bị năm “thực” hoặc năm “hư”, đều chết [86]. Hoàng Đế hỏi: Năm thực, năm hư, là thế nào? [87] Kỳ Bá thưa rằng: Mạch thịnh, da bóng, phúc trướng, đại tiểu không thông, mắt mờ... Đó là năm “thực”, tức là khí thực) [88]. Mạch tế: da lạnh, thiểu khí, tiền hậu đều tiết và lợi, không uống ăn được... Đó là năm “hư” (tức chính khí hư) [89]. Hoàng Đế hỏi: Mắc chứng như thế, mà đôi khi cũng có người sống, là vì sao? [90] Kỳ Bá thưa rằng: Nếu nước cháo có thể nuốt được vào Vị, tiết và lợi đều ngừng... Thời dù gặp “hư” cũng sống. Nếu mồ hôi ra được và tiểu tiện lợi... thời dù gặp “thực” cũng sống [91].
Thiên hai mươi: TAM BỘ CỬU HẬU LUẬNHoàng Đế hỏi rằng: Tôi nghe về phép cứu châm, ứng với trời đất, ứng với Aâm Dương, hợp với bốn mùa và 5 hành... Đường lối như thế nào, xin cho biết [1]. Kỳ Bá thưa rằng: Chí số của trời đất, bắt đầu tứ số một (1), cuối cùng là số chín (9). Một là trời hai là đất, ba là người. Vậy ba lần ba là chín, để ứng với chín “dã” [2]. Ở con người chia làm ba bộ, mỗi bộ có ba hậu, để quyết sống chết, để trị trăm bệnh, để điều hư thực mà trừ tà tật [3]. Hoàng Đế hỏi: Ba bộ là gì? [4] Kỳ Bá thưa rằng: Có hạ bộ, có trung bộ, có thượng bộ. Mỗi bộ có ba hậu, tức là trời, đất và người [5]. Thượng bộ về trời, ứng vào động mạch ở hai trán, thượng bộ về đất, ứng vào động mạch ở hai bên má, thượng bộ về người, ứng vào động mạch ở hai bên tai [6]. Trung bộ về trời, thuộc thủ Thái âm, trung bộ về đất thuộc thủ Dương minh, trung bộ về người, thuộc thủ Thiếu âm [7]. Hạ bộ về trời, thuộc túc Quyết âm, Hạ bộ về đất, thuộc túc Thiếu âm, Hạ bộ về người, thuộc túc Thái âm [8]. Cho nên hạ bộ về trời để hậu (nghe mạch) cái khi của Can, đất để hậu cái khí của Thận, người để hậu cái khí của Tỳ Vị [9]. Hoàng Đế hỏi: Về sự “hậu” của trung bộ như thế nào” [10] Kỳ Bá thưa rằng: Cũng có trời, đất, người khác nhau. Trời để hậu Phế, đất để hậu khí ở trong Hung, người để hậu Tâm [11]. Hoàng Đế hỏi: Về sự “hậu” của thượng bộ như thế nào? [12] Cũng có trời, đất, người khác nhau. Trời để hậu khí ở đâu, đất để hậu khí ở miệng và răng, người để hậu khí ở tai và mắt [13]. Trong ba bộ, đều có trời đất người. Do ba mà thành trời, do ba mà thành đất, do ba mà thành người (tức ở trong 9 hậu mỗi hậu đều có ba) [14]. Ba nhân với ba thành chín. Số chín đó chia làm 9 dã, 9 dã lại hợp với 9 Tàng [15]. Về thần Tàng có năm (1) về hình Tàng có bốn (2), hợp lại thành 9 Tàng [16]. Năm Tàng đến lúc bại, sắc tất bợt ra. Bợt ra thời hẳn chết [17]. Hoàng Đế hỏi Về phép “hậu” như thế nào? [18] Kỳ Bá thưa rằng: Trước phải nhận xem người gầy hay béo, để xét xem khí hư hay thực. Thực trời tả, hư thời bổ. Phải trừ bỏ tà khí trong huyết mạch rồi mới có thể điều hòa. Không cứ gì bệnh khó hay dễ, cốt làm cho khí được quân bình [19]. Hoàng Đế hỏi: Quyết chết sống như thế nào? [20] Kỳ Bá thưa rằng: Hình thịnh, mạch tế, hơi ít như không đủ để thở, là bệnh nguy [21]. Hình gầy, mạch đại, trong hung hơi nghẽn, là bệnh nguy [22]. Lúc đại, lúc tiểu, lúc tật, lúc từ... mạch đi không đều... là bệnh nguy [23]. Ba bộ, chín hậu, mạch đều trái nhau, sẽ chết [24]. Mạch ở trên, dưới tả, hữu cứ so le không khớp với nhau, là bệnh nặng [25]. Mạch ở trên, dưới tả, hữu đều trái nhau không còn nhận được bao nhiêu “chí” là bệnh chết [26]. Mạch ở trung bộ, hậu dù có nhiều, nhưng lại trái hẳn với các tàng khác... là bệnh chết [27]. Mạch ở trung bộ, hậu dù có điều, nhưng lại trái hẳn với các tàng khác... là bệnh chết [28]. Mạch ở Trung bộ, hậu rất mỏng manh, là bệnh chết [29]. Mắt lõm xuống, là bệnh chết [30]. Hoàng Đế hỏi: Sao biết được bệnh ở đâu? Kỳ Bá thưa rằng: Xét ở chín hậu, mạch nếu thiên về “tiểu”, thiên về đại, là mắc bệnh, thiên về tật, thiên về trì, thiên về nhiệt, thiên về hàn, hoặc thiên về hãm, hạ... đều là mắc bệnh [31]. Dùng tay tả của mình, án lên chân bệnh nhân, cách xương “khoai” năm tấc, rồi tay hữu của mình gõ lên xương “khoai” của bệnh nhân. Nếu mạch ứng lên quá 5 tấc, có vẻ hơi bật bật đều đều, thế là vô bệnh, nếu ứng lên tay nhanh, có vẻ tuồn tuồn... là mắc bệnh, hoặc lại chậm chạp bợt bạc... Cũng là mắc bệnh [32]. Nếu mạch ứng lên, trên không tới được 5 tấc (tấc ở đây, thuộc về quan xích đời xưa), dù có gõ lên xương cũng không thấy, bệnh sẽ chết [33]. Bệnh nhân, thịt tiêu mòn hết, sẽ chết [34]. Mạch ở Trung bộ, lúc xơ, lúc sác sẽ chết [35]. Nếu mạch hiện ra Đại mà Câu, là bệnh tại Lạc [36]. Chín hậu cùng ứng, hợp nhau như một, không được so le. Nếu một “hậu” chậm lại sau, là bệnh nguy. Nóùi “chậm lại sau” tức là mạch ứng không đều [37]. Xét ở Phù Tàng, để đoán biết cái thời kỳ sống chết [38]. Phải trước biết Kinh mạch, rồi sau mới biết được bệnh mạch -Mỗi khí mạch của Chân tàng hiện ra, gặp cái ngày “thắng” (khắc), sẽ chết [39]. Kinh Túc Thái dương khí tuyệt bệnh nhân chân không thể co duỗi, khi chết tất trợn mắt [40]. Hoàng Đế hỏi? Mùa Đông thuộc âm, mùa Hạ thuộc Dương, ứng với người thế nào [41]. Kỳ Bá thưa rằng: Mạch chín hậu, đều Trầm, Tế cách tuyệt nhau thế là âm, thuộc Đông, nên chết về khoảng nửa đêm, nếu mạch thịnh, táo, sác và suyễn. Thế là Dương, thuộc hạ, nên chết về đúng trưa. Phàm bệnh hàn nhiệât, thường chết về lúc sáng rõ, chứng Nhiệt trung với bệnh nhiệt, cũng chết về lúc đúng trưa, bệnh phong, chết về lúc mặt trời lặn, bệnh thủy, chết về nửa đêm, mạch lúc xơ, lúc sác, lúc tật, lúc trì... Tới ngày tứ quý sẽ chết [42]. 43) Thịt ở thân thể tiêu mòn hết, chín hậu dù đều, cũng chết [43]. 44) Bảy phép chẩn dù có đủ (1), nhưng chín hậu đều thuận, không chết [44]. Hoàng Đế hỏi: Như thế nào, có thể chữa được? [45] Kỳ Bá thưa rằng: Bệnh về kinh mạch thời trị kinh mạch, bệnh về Tôn lạc thời trị Tôn lạc. Huyết bệnh mà mình có đau, thời trị ở kinh lạc. Nếu phạm phải kỳ tà (tức tà khí lạ lùng, ít khi có), xét luồng mạch kỳ tà để thích. Bệnh đã lâu ngày, tụ ở khớp xương, nên thích ngay ở khớp xương. Nếu trên thực dưới hư, huyết mạch không thông, nên tìm chỗ kết ở lạc mạch mà thích cho thấy có máu (1) [46]. Đồng tử đột cao lên, do khí ở Thái dương bất túc. Mắt trợn lên, do khí ở Thái dương đã tuyệt. Đó là cái cốt yếu để quyết sinh tử, phải xét kỹ mới được [47].
|