QUẢNG THÀNH TỬ


Giờ Dậu Đêm ngày 29 tháng 04 năm 1933
                    THI
QUẢNG quản minh minh Đạo bí truyền
THÀNH nhơn chí thiện thị tiền duyên
TỬ tôn ký tạc xa hành bộ
LAI giáng trần gian hậu nhựt huyền

Yên tọa nghe ta cho bài trường thiên nầy
mà chiêm hiểu lý của ta phân giải.

TRƯỜNG THIÊN
Người Đạo đức suy minh xét lý
Kẻ thiện căn gắng chí hành thân
Chớ mê tửu sắc cõi trần
Chớ ham danh lợi nhọc phần thần tâm
Kìa kia kìa đào nguyên động báu
Đây nè đây một đạo vân lành
Non tiên nào có tử sanh
Thần Tiên đâu có nhọc nhành cái thân
Vui biết mấy sao câu xiết kể
Phỉ biết bao đâu thể ở trần
Chim kêu lảnh lót xa gần
Nào rồng nào phụng nào lân giỡn cười
Bờ Tiên đẹp tốt tươi tảng đá
Rượu trường xuân miến lạ cõi tiên
Ngâm nga thi phú vườn tên
Ngấm trong thế sự kẻ rên người buồn
Phân cho cạn dẫu đền lũy có
Xét cho cùng giàu nọ ích chi
Soi ra giấc mộng ra gì
Mấy mươi ở thế nhọc thì muôn năm
Cái thân thịt ghê thầm cho thế
Lúc tử sanh thật uế của đời
Làm sao cho đặng thảnh thơi
Lo sao cho khỏi lúng vơi tuần hườn
Người ở thế tu nhơn tích đức
Kẻ họa trần tỉnh thức hồi qui
Muôn năm ân tứ nhứt kỳ
Mở đàn khuyến thiện là thì đã chung
Thương những bực cúc cung lạy Phật
Chẳng hiểu dung Đạo mật trời ban
Công tuy sẳn có mấy hang
Xét tra thân trược hụt đàn thuyền đưa
Trên non báu lọc lừa thứ tự
Chốn Bồng Lai hung dữ đặng đâu
Nơi trần sát phạt bao sâu
Danh rền cho mấy lo âu hồi đầu
Người tu niệm bao lâu cũng đặng
Miễn chí tâm căn dặn lấy lòng
Muôn điều lành giữ cho xong
Tai Trời ách nước đừng mong làm gì
Khuyên ai chí thiện khá ghi
Thuyền còn đợi rước kịp kỳ Long Hoa.

Đêm 14-02-1927 năm Đinh Mão

Đốc công hiểu phò loan, Thầy cho Quan phủ Ngô-Văn-Chiêu.

CAO-ĐÀI THƯỢNG-ĐẾ
TRƯỜNG-THIÊN
Đêm nay mười bốn trăng thanh,
Thương người mộ Đạo không đành làm ngơ.
Giác-hồn cho tỉnh tri cơ,
Tứ linh Thiên-Đạo tình cờ ai hay.
Phép mầu rút lại trong tay,
Đem ra dung lại mới tài đó con.
Lừa qua kép lại cho tròn,
Đừng cho lên xuống nó mòn nó tiêu.
Để dành mỗi nhựt triêu triêu,
Đem vào lạc cảnh tới chiều dở ra.
Đừng cho nó chạy Ta-bà,
Quen chừng đường cũ nó ra nó vào.
Phép mầu mới rõ Đạo-Cao,
Đừng cho xao động nó hao ích gì.
Để dành đúng tiết gặp thì,
Dùng làm chưng đứng mau đi tới nhà.
Thương con Thầy mới thốt ra,
Coi theo y lệ vào ra có chừng,
Đôi câu chỉ tắt đường rừng,
Máy linh chuông đúc mấy từng Trời cao.
Nhớ chừng trong lúc ra vào,
Đừng quên cất nó trong ao cửa Trời.
Rồng kia giởn sóng ngoài khơi,
Thưở ngồi núp bóng rừng mơi trông chừng.
Tình-tang tích-tịch từng-tưng,
Gió reo hơi mát chín từng thang mây.
Mặt trời rạng mọc phương tây,
Ủa kìa sao vậy lạ thay trò cười.
Rõ ràng Trời chín Phật mười,
Trăm vòng quanh quất ai bươi chỉ dùm.
Nẽo nào cũng đến nhà chung,
Lửa trời chớp nháng gió rung thêm lòa.
Coi chừng ngọn đuốc con qua,
Rồi con mới rõ vào ra có Thầy,
Ngọn cờ Thầy phất đông Tây,
Chiếu lòa ánh sáng cung mây nhắm chừng.
Ba lần thăng giáng tưng bừng,
Đờn reo suối chảy thỏ rừng chạy ra.
Vừng mây vẹt sáng Trời-Già,
Hào-quang năm-sắc liên tòa đơm bông.
Coi chừng hướng bắc thẳng xông,
Vào tòa ngọc các đền rồng gặp Cha.
Nói rồi Thầy tách dặm xa,
Mặc con toan liệu Đạo nhà cho xong.
TRƯỜNG-THIÊN
Đêm thu trăng rọi sáng ngời,
Tòng reo gió thổi trên trời sao băng.
Thỏa lòng hứng cảnh bóng hằng,
Vừng mây đỡ gót giáng thăng chốn trần.
Thương con Thầy chỉ Đạo bần,
Quản chi trần thế lao thân ích gì.
Toan lo đầu Phật quy y,
Ngày ngày mộ chữ tu trì hay hơn.
Nhọc nhằn đừng để dạ sờn,
Tiêu diêu chốn cũ linh-đơn độ về.
Một lòng chớ khá tê mê,
Ba từng chậu úp bốn bề chạy ra.
Lánh vòng ánh sáng chói lòa,
Chuôt kêu tý tục gà đà gáy rân.
Rồng kia ẩn bóng sông ngân,
Chờ khi trăng lặn lần-lần phun châu.
Bớ con cho rõ đuôi đầu.
Phụng nằm ấp trứng minh châu chờ ngày.
Huê thơm nhụy nở Liên Đài,
Sang thu huê nở bệ giai có Thầy.
Ai hay cho gã lưng đầy,
Huỳnh tương con nhớ anh tài khi xưa.
Căn duyên ngày trước cũng vừa,
Lòng toan giữ lấy muối dưa vào lòng.
Vừng mây cùng hạc chúc mong,
Kiếm nơi gió mát nước trong khỏe mình.
Trần-Tô xưa luyện chơn-kinh,
Đến khi thành Đạo minh-minh trở về.
Nay con rõ vậy phụng đề,
Ba năm tám tháng dựa kề Bồng-lai.
Đôi lời cạn tỏ bớ ai,
Bề trong khuôn đúc bề ngoài ra sao.

Đàn chánh ngày 29 tháng 06 năm 1927 Đinh Mão.

THẬP THỦ LIÊN-HƯỜN
                oOo
CAO-ĐÀI THƯỢNG-ĐẾ
THI
Đạo mầu độ chúng chẳng làm chơi,
Tả Đạo thông tri cũng chẳng đời;
Chẳng rõ giả chơn xem xét lại,
Thông tri cho mấy chẳng qua Trời.
                oOo
Qua Trời là bực kẻ mang phu,
Ngó đến cung Tiên cũng tối mù;
Đạo-Đức thả trôi theo giọt nước,
Muôn đời khó đặng chỗ vui thu.
                oOo
Vui thu chỉ dạ tụng kinh Trời,
Đắc Đạo sau này đặng thảnh thơi;
Cực-Lạc mau chơn dung rủi bước,
Thỏa lòng rượu cúc chén lưng vơi.
                oOo
Lưng vơi thế sự biết đâu mà,
Tiên-cảnh bên mình ngẫm chẳng xa;
Khá sửa nền tu là chí cả,
Mau chơn lo kịp buổi Long-Hoa.
                oOo
Long-Hoa mới rõ kẻ tu-hành,
Đạo-đức vuông tròn đặng hiển danh;
Chớ tưởng hồng trần là cảnh báu,
Giàu nhơ khó sánh đặng bần thanh.
                oOo
Bần thanh mới thuận với lòng Trời,
Chắc dạ tu hành mới thảnh thơi;
Tối sớm siêng lo câu tụng niệm,
Đến giờ Cực-Lạc mới vui chơi.
                oOo
Vui chơi mùi Đạo mới là sang,
Gắng chí mau chơn hội Niết-Bàn;
Rượu-Thánh vui say nơi cụm trước,
Thỏa lòng nhã hứng chốn Tiên-Bang.
                oOo
Tiêng-Bang muôn kiếp hưởng an-nhàn,
Lần lựa rồi e mất lộc ban;
Muốn biết Đạo lành tua trở gót,
Kẻo mà lạc nẻo thở rồi than.
                oOo
Rồi than cho kẻ đắm mê trần,
Lộc hết còn mang cực khổ thân;
Trung hiếu hiếu trung khôn vẹn một,
Canh tàn càng chịu chốn tao-tân.
                oOo
Tao-tân cuộc thế đổi khôn thường,
Nắng lửa mưa dầu xiết nỗi thương;
Bởi rứa Cao-Đài mau xuống thế,
Độ người đạo-đức lúc tai-ương.

http://antruong.free.fr/Datma.html

 Trở Lại Mục Lục