ĐẠO LÝ TRỰC LUẬN

       Tôi luận bài dưới đây chẳng phải cố ý kích bác chi việc người mà khen việc mình. Ý tôi muốn lấy lời minh chánh mà luận việc tu hành trong lúc này, cho những người háo thiện dòm xem: nhất là mấy người muốn tu bực tối thượng nhất thừa, đặng mà thành Tiên thành Phật hiển hiện tại thế gian này.
      
Nếu ai coi bài tôi luận, tưởng rằng có lý thì nương theo đó để tìm đàng chánh
(Chánh Đạo) mà vào cửa đạo; bằng ai gọi là phi lý thì bỏ qua tự ý.
           Tôi chẳng dám ép ai phải nghe lời tôi, hoặc phải tin lời tôi luận mà làm theo.
       Cái đạo tôi tìm đây chẳng có lạ chi: vì bấy lâu cửa Thiên Đình bế lại, nên khiến “đạo thơ” ít ai khảo cứu; cứ bỏ dưới đáy tủ của các chùa; vì mấy ông tu còn ở bực hạ thừa, cứ lấy bực hạ thừa mà dạy chúng sanh, nên không thấy ai từ ấy những nay mà thành Tiên thành Phật.
       Một đều này rất tệ là: mấy ông đạo ăn lạt gọi mình rằng tu, không cho kẻ thế gian coi đơn kinh; cứ nói người ăn mặn không nên coi kinh tối thượng. Ấy là cố ý sợ người thế thấy chỗ bí mật mà người tu không làm được, rồi vấn nạn. Hoặc là lòng tư kỷ, sợ người có căn cao hành đạo, rồi hơn mấy ổng chăng.
Nên cửa đạo bế lại là tại vậy đó.
       Tôi ra công tìm kiếm, tới ngày nay là gần hai mươi năm, hết sức cực nhọc mới đặng đạo thơ. Và tôi rán sức học chữ Hán đặng coi đơn kinh mà khảo cứu cho rõ việc tu hành. Tôi thiệt thấy rõ ràng trong các sách của “Tiền Bối” để dạy bậc tối thượng, đặng kẻ hậu lai coi đó mà làm Tiên làm Phật chẳng sai. Không có một mảy nói huyễn hoặc, thiệt rất chí lý. Chớ chẳng phải lập chùa, ăn chay, tụng kinh, lạy Phật mà về Thiên
Đàng đặng. Duy có biết lọc cái linh hồn và luyện cái xác phàm của mình, (tánh mạng song tu)
rồi ngoài thân ta có một thân riêng rất nên trong sạch. Thân ấy là Tiên, là Phật đó.
Phật gọi “xá lợi thành hình, xuất thai thân vi Phật tử”. Tiên gọi là “Xuất dương thần”. (périsprit)
        Muốn lọc cái linh hồn cho trong sạch; trước hết phải đừng cho nhiễm sự quấy;
hay là đã nhiễm sự quấy rồi thì mình phải gắng sức ăn năn chừa lỗi, linh hồn lần lần mới trong sạch.
Sau lo luyện kỷ (Luyện kỷ nghĩa là muôn việc đều bỏ hết).
      Tập hườn hư (hườn hư là lục căn bế lại) cho đến chừng hư cực tịnh đốc chi thời (calme absolu).
       Trong lúc này nếu gặp chơn sư truyền chỉ phép luyện cái “huệ mạng” của mình thì mới có ngũ sắc tường vân, đặng hiệp với Tiên Thiên của Trời thì về Thiên đàng mới đặng (Ngũ sắc tường vân là tiên thiên khí). Bằng chẳng làm như vậy, dầu có tọa thoàn tu một mình cái linh hồn sau xuất âm thần thì làm âm binh chi quỉ, chớ không ra khỏi vòng luân hồi đặng.
       Ngũ sắc tường vân đó bởi cái chơn tinh con người mà luyện ra. Dùng phép hóa học mà luyện ra tiên
thiên khí vô hình. Tỷ như đặc rượu mà lấy hơi vậy.
      Nên Phật gọi là “Cam lồ thủy” Tiên gọi là “Quỳnh tương tửu” hay là rượu “đề hồ”.
       Thân con người nhờ vật thực, nhất là loài ngũ cốc hóa ra huyết, huyết lại hóa ra tinh, gồm sự quí báu mà nuôi cái xác phàm này.
Vật ấy là thuốc trường sanh cho nên con người tinh còn thì sống, tinh kiệt thì chết.
       Người phàm bởi chỗ nhơn dục chưa nhàm, cứ lo tranh đoạt danh lợi, kiếm chước đầy mưu kia cho đặng sung sướng cái thân tạm này, mà chẳng biết cái thân tạm ấy không bao lâu hao mòn Tam Bửu (Tinh, Khí, Thần), thì hồn phải lìa xác đó.
Cũng như cây đèn cháy lụn, hết dầu phải tắt, tự nhiên ngươn thần,
ngươn khí, ngươn tinh tán ra hồng trần cho tận tuyệt, rồi linh hồn lìa xác.
Ba vật ấy là sự quí báu của con người, ngày nay rõ mối đạo rồi, thì phải làm sao mà cướp lại ba vật ấy của Trời Đất, đặng cho thân mình đầy đủ Tam Bửu như hồi còn nhỏ, thì là lý trường sanh của đạo.
Vậy mới gọi người đồng đứng trong Tam Tài: Thiên, Địa, Nhơn.
       Việc tu hành làm Tiên Phật có ấn chứng, tại nhản tiền, chớ chẳng phải nói rằng người tu chết rồi mới được về Thiên Đàng. Nói vậy là nói huyễn. Lấy đâu mà làm bằng cớ. Nhiều người tu thác rồi, nào có thấy ai trở về mách bảo nói rằng lên được chốn Thiên Đàng đâu. Kẻ nào nói thác rồi mới về Thiên đàng ấy là kẻ nói gạt gẩm cho kẻ khác lầm. Bởi Đạo lý cao xa, không hiểu thấu, nên gắng gượng làm việc cầu may, thọ nhơn tước với nhau mà tranh cao tranh thấp. Người tu mà luyện không trúng cách thức của Tiên Phật dạy rõ ràng trong các Đơn Kinh, lại nói rằng chết rồi hồn trở nên Tiên Phật, thì người ấy cũng như xướng nhi trên hí đài (sân khấu) tự xưng là Hớn Cao Tổ, Sở Bá Vương, Quan Công Hầu vậy. Làm làm sao cho đặng thọ Thiên Tước, vậy mới chắc thành chánh quả.
     Thiên Tước có 5 bậc, bởi chỗ công quả tu hành nhiều ít tùy theo đó mà chứng quả:
      (1) Nhơn Tiên; (2) Địa Tiên; (3) Thần Tiên; (4) Thiên Tiên; (5) Đại Giác Kim Tiên (là Phật).
5 bậc này tu dương thần mới có ngũ sắc tường vân. Ba bậc trên là Kim Tiên, Thiên Tiên và Thần Tiên thì  
được phi đằng; còn Nhơn Tiên và Địa Tiên bởi hình thể còn trọng trược nên xuất dương thần chưa đặng. Nếu hai bậc này giữ được thần khí không hao mòn, thì được ích thọ diên niên trường sanh vô bệnh; bằng giữ chẳng đặng bị thần tùy khí tán, thì cũng phải chết như kẻ thường nhơn vậy.
      Người phàm ai ai cũng con Trời, nếu hồi đầu hướng thượng, nghịch chuyển, thì làm Tiên làm Phật đặng. Còn cứ đi thuận hoài thì sanh nhơn vật.
Ấy là cơ Tạo Hóa đổi xây Thánh ra phàm, phàm ra Thánh là vậy đó.
       Đạo không dấu ai miễn có lòng ăn năn theo đàng thiên lý, bỏ đường nhơn dục, đi nghịch thì mới về cõi Tiên cõi Phật đặng.
Cuộc đời như giấc mộng, như một đêm tại hí đài thượng. Mỗi người đều có một vai tuồng. Mãn vai tuồng thì rồi cởi lốt, qua đêm khác làm vai tuồng khác. Cứ vậy làm hoài. Ngàn sanh muôn kiếp không ra khỏi “trầm luân” này (cercle dé générations).
Gây tạo tiền khiên, trở lại đặng trả quả cho nhau (le karma ou loi de la causalité).
Nếu ai biết hồi đầu hướng thượng, quyết chí lo ra cho khỏi khí hậu thiên này, thì phải tu âm chất cho đầy đủ, cảm động Thiên tâm, thời có ngày gặp đặng chơn sư chỉ điểm cách tu cái “huệ mạng”
đặng tạo khí tiên thiên thì về Trời có khó chi. Ấy là lý làm Tiên làm Phật vậy.
Chớ chẳng phải nói tụng kinh, ăn chay, lạy Phật, cất chùa, mà Phật độ về thiên đàng đặng.
Vì đức Lục Tổ Huệ Năng có nói rằng: «Đản y thử tu, dữ ngô đồng xứ vô biệt,
bất tác thử tu, thí pháp xuất gia ư Đạo, hà ích?».
          Nghĩa là các ngươi phải tu luyện như cách tu của ta, thì sẽ đặng thành Phật mà về một chỗ với ta, bằng chẳng tu luyện cách ấy, có cạo đầu vô chùa, nào có ích chi?
         Trời muốn cho mỗi người hành đạo, đặng có về chốn Thiên Đàng là nơi thắng cảnh,
hưởng phước tiêu diêu.
           Tại người phàm rõ cái máy thiên cơ trong mình, đặng lọc huệ mạng của mình, nên về Thiên Đàng không đặng.
Nay là lúc Đại Đạo phục hưng, ai có phước lớn thì gặp minh sư chỉ truyền tâm pháp mà tu luyện dương thần; còn ai thiểu phước bị manh sư thì phải té vào bàng môn giả dối.
          Mất dịp này rất uổng cho thân sanh ta một thuở, mà ngàn thuở chưa biết có tái lại đặng chăng?
Bởi có lời giáng cơ của ông Huê Quang Đại Đế nói như vầy.

Huê phát Tam kỳ đạo dĩ khai,
Quang minh tứ hướng thượng tam tài;
Đại phước kim đơn thân đắc ngộ,
Đế quân giáng hạ nhữ vô lai.

Vô tai khả tảo tu,
Diên trì thất công phu;
Chư nhu hành chánh Đạo,
Thượng thừa chí ngao du.

Ngao du tứ hải lạc Hi Di,
Thiện chí tu tâm phước hữu kỳ;
Luyện đạo, luyện đơn, duyên hống luyện,
Chơn tâm, chơn tánh đắc từ bi.

Từ bi chỉ giáo nể minh tâm,
Tường thức chơn cơ, vật ngoại tầm;
Tâm chánh liên hoa thân tảo ngộ,
Hữu căn phùng diệu cổ lai câm.

Lại ông Tào Quốc Cựu cũng có cho hai bài dưới đây:
Nhựt dạ công phu, nhựt dạ hành,
Kim đơn tảo vãn luyện nhi phanh;
Nhứt liệp minh châu tùy thời ngộ,
Càn Khôn thủy hỏa hữu thời thanh.

Đạo lý dĩ minh nể khả tàng (tường),
Xuất thân luyện Đạo phước nhàn an;
Diên trì hậu nhựt hà tu hối?
Ngộ chơn tảo tảo luyện thanh càn.

Tôi coi đơn kinh thấy lý đạo như lời tôi tỏ bày trên đó, nên mới dám khuyên chư tôn rán sức tìm những đơn kinh dạy làm những bậc tối thượng nhứt thừa, xem lấy thì cũng như tôi vậy.
Các thứ đơn kinh kể ra sau đây:
Kim Tiên chứng luận.
Tiên Phật hiệp tông.
Thiên tiên chánh lý.
Huệ mạng kinh.
Tiều dương kinh.
Huê nghiêm kinh.
Trực chỉ huyền châu.
Đạo thơ thập nhị chưởng.
Lục Tổ bửu đàn kinh.
Tánh mạng khuê chỉ.
Quan Âm bí giải. (dịch rồi)
Xiển pháp chơn ngôn.
Huyền vi tâm ấn kinh.
Xuất tánh xiển vi.
Xích thủy ngân.
Lăng Nghiêm kinh.
Huyền diệu cảnh. (dịch rồi)
Ngộ tánh cùng nguyên.
Kim cang kinh chơn giải. (dịch rồi)
Ngộ chơn thiên.
Tham đồng khế.
Dưỡng chơn.
Vô căn thọ, Tư huê đề.
Chánh đạo linh chơn kim đơn ngoại cảnh.
Chánh đạo linh chơn kim đơn nội cảnh.
Thiên tiên chánh lý độc pháp điểm tình.
Thái Thượng thập tam kinh.
Lữ Tổ toàn thơ.
   Ấy là mấy thứ kinh tôi đã thấy, chớ còn kinh chi cao nữa thì chưa thấy; nếu ai có tìm đặng kinh cao hơn nữa, xin tỏ bày cho bọn tôi xem, đặng minh đạo lý, thì sự ấy rất dày âm chất đó.
Mấy tạng kinh nói trên đó chỉ là phép tu luyện, có họa đồ, có hỏa hậu.
      Song le coi kinh phải suy xét cho nhiều, vì nhiều lời Tiên Phật hay nói ẩn, đợi kẻ đại căn đạt lấy mà thông sự lý.
     Cũng như Đại học Trung dung của Nho làm ra, nói nhơn đạo mà thiên đạo ẩn ở trong đó.
      Những lời huyền diệu của đức Khổng Tử di ngôn cho các môn đồ của ngày đều ở trong hai sách ấy.
Qua đến đời ông Mạnh Tử thì đạo bế lại, không có người ra gánh mối đạo nỗi,
đặng làm bậc tối thượng mà siêu phàm nhập Thánh.
      Lúc này là buổi Tiên Thánh lâm phàm mà độ nguyên nhơn. Con đò Bác Nhã (là đò Phật để độ chúng sanh qua biển khổ) đã lố ra ba bốn năm rồi đợi tiếp dẫn những người thiện duyên.
     Nếu ai tới bến đò sớm, thì có người tiếp rước liền, chẳng luận sang hèn quyền quí hay là hạ tiện, trọng kẻ đạo đức cao dày mà thôi.
          Vậy nếu ai có chí tu hành, hoặc có đại căn phải lo tu luyện cho sớm, chớ để đại tai đến thì ngọc đá khó phân.
      Vì có hai bài của Đông Phương Sóc xuống cơ như vầy, trong năm 1923 tháng 8.

Đông, Tây,Nam, Bắc nhập Trung ương,
Hắc, xích, thanh, huỳnh bạch hỏa xương;
Thiên Địa đảo điên, nhơn vật hoại,
Càn Khôn chuyển động, chúng dân ương.
Tu tâm tỉnh chí phân tam khí,
Luyện tánh minh tinh hiển tứ phương;
Thoát tục ly tai, thân vĩnh lạc,
Bất tri cơ chánh, bất an khương.
Hữu hạnh chư-nhu ngộ đạo huyền,
Phật Tiên chỉ dẫn luyện tiên thiên;
Bác-nhã linh thoàn kim dĩ lộ,
Hà do bất học, hựu thiên diên?

       Đời này nhiều sự tai biến lắm, nên phải gấp gấp tu hành Chánh Đạo. Song le phải có chơn sư chỉ cách thức tu luyện huệ mạng mới đặng. Đừng để cho manh sư (thầy mù) dắt vào hang sâu vực thẫm mà chôn lấp kẻ thiện tín vô số, thì rất uổng công chúng ta ngày nay gặp dịp tốt, là lúc Đại Đạo phục hưng, mà mình nắm mối đạo không đặng. Người tu hành chẳng nên lấy sự quả vị cao thăng mà gọi mình tu. Phẩm vị là bề ngoài của nhơn đạo, hay lo đua tranh cho thiên ha tùng phục đó mà thôi. Người tu bậc tối thượng phải ly gia cắt ái, xa lánh chốn thị thiền, thanh tâm quả dục, đoạn thất tình, chẳng nên lo việc nước việc nhà, chẳng nên làm đoàn thể gọi rằng dìu dắt độ người. Phải tìm nơi thanh tịnh đặng tịnh dưỡng cái linh hồn; thì một ít lâu máy thiên cơ mới phát động. mau thì bảy ngày, lâu thì mười bốn bữa. Nhơn dục tịnh tận, thiên lý lưu hành trong lúc đó mới rõ nguồn Tiên nẻo Phật mở khai; song le phải có chơn sư chỉ phép tắc lấy thuốc trường sanh (kim đơn) mới đặng. Nếu không gặp chơn-sư thì rán xem xét đơn kinh cho chí lý, làm y cách dạy trong sách ấy, thì cũng tròm trèm như là có chơn sư chỉ bày. Lần lần phát minh theo cũng kịp đặng. Vì đơn thơ một cuốn chỉ lộ ra một đoạn, chớ một cuốn không nói cho cùng lý. Cách thức hỏa hậu phải coi nhiều cuốn mà ráp lại mới thành y theo hỏa hậu của Tiên Phật. Noi theo đó mà luyện thì chắc được thành Tiên thành Phật.
Kinh điển tuy đặt ra cho nhiều, là cố ý mở tâm con người cho hiểu xa rộng thấy, chớ lý đạo chẳng ra khỏi âm dương nhị khí: một cái thanh một cái trược mà thôi. Biết cách khử trược lưu thanh, thì mình khinh phù, còn không rõ lý dinh hư tiêu trưởng, để cho hết thanh rồi tồn trược, thì ngưng lại chìm xuống lóng cặn, thì phải ở trong vòng hậu thiên mà thôi.
Nếu không phân rõ cách vận chuyển âm dương, nếu không biết cách lọc thanh bỏ trược,
dầu đạo nào có xưng là chánh cũng không thế chi mà về Thiên Đàng đặng.
Bất quá nói huyễn dụ chúng gạt người theo cho đông đặng cầu danh cầu lợi mà thôi.
Biết cái máy thiên cơ này, dầu theo đạo nào làm cũng đặng. Chổ về đàng cả làm theo lẽ tự nhiên, không can phạm chi đến điều luật riêng của các mối Đạo. Cho nên đức Thái Thượng đạo Tiên, luyện cái máy này mà về Tiên Bang; đức Thích Ca đạo Phật, luyện cái máy này mà đến Niết Bàn, đức Khổng Thánh luyện cái máy này mà siêu phàm nhập thánh, đức Jésus luyện cái máy này mà bạch nhựt thăng Thiên. Các vì Tiên, Phật, Thánh khác cũng nhờ luyện cái máy này mà về cõi Tiên cõi Phật cõi Thánh. Việc phàm trần cũng thấy lý đạo mà bày ra. Chẳng luận là máy chi cũng phải dùng âm dương thủy hỏa và ngũ hành mà chế tạo.
Tôi đây chẳng ưa danh mến lợi, song ở phàm trần ai cũng phải lo một đoạn hồng trần. Vì có cha mẹ vợ con nên trước phải lo cho tròn chữ hiếu chữ nghĩa, kế phải lo cho nhơn quần xã hội, rồi mới lần qua Thiên-đạo được. Lòng quyết chí lo nhơn đạo cho xong. Cố ý liều cái thân phàm này, ra công gắng sức làm Đạo cho rõ ràng, đặng kẻ đồng chí biết làm Tiên làm Phật có ấn chứng mà noi theo. Xong nhơn đạo còn ràng buộc, bức rức trong lòng muốn đi cho gấp mà chưa đặng. Bởi tôi thấy kẻ tu hành làm huyễn, nên gia công gắng sức tìm cho ra mối Đạo, mới thấy sự mầu nhiệm của Trời. Chớ chẳng phải làm việc cầu may nói xàm đặng khoe danh với thiên hạ. Cũng chẳng phải điên mà đòi liều cái thân phàm này.
Cũng chẳng phải dại, đến bỏ cái mồi mà theo cái bóng. (Lâcher la proie pour l’ombre).
Chư tôn rán nghiệm suy cho rõ, vì lúc này là lúc Thiên Đàng mở cửa. Nhưng mà chưa thấy ai vào đường chánh này, đi cho cùng tột đặng trở lại dìu dắt người đại căn. Mà lại thấy bàng môn tác loạn càng ngày càng lộng: sợ cho những người đại căn chưa gặp mối Đạo, chưa hiểu lý đạo mà lầm, rồi biết chừng nào hồi đầu cho đặng, thì luống công vô ích. Rồi ngàn sanh muôn kiếp biết có tái lại đặng chăng.
         Tôi luận bài này chẳng cố ý kích bác việc người tu, vì sự tu hành có nhiều bậc: hạ thừa, trung thừa, thượng thừa, tối thượng nhứt thừa. Chủ ý mở đường chánh đạo mà dìu dắt kẻ tu bậc tối thượng mà thôi, còn ai tu theo ba bậc dưới thì tôi không dám nói đến, vì mỗi người tùy theo tự do sở thích của mình.
      Giả tỷ như đi trong đường tâm tối, tôi may được một cây đuốc, mau mau đốt đuốc lên đặng có chỉ nẻo tắt cho người đồng chí noi theo lần đường.
Ai có căn lành đầy đủ đức hạnh thì chắc gặp đàng chánh này.
Bằng ai thiểu phước khó mà gặp đặng.
       Ai còn ưa mến đường nhơn dục, thì lo công danh phú quí, lo cho nhơn quần xã hội. Ai dứt đặng nhơn dục thì vào đàng thiên lý, tìm chơn sư chỉ cách thức luyện huệ mạng của mình đặng hóa ra tiên thiên khí hiệp với khí tiên thiên của Trời thì về cỏi Thánh được. Ngũ sắc tường vân hay là tiên thiên khí do bởi cái chơn tinh của con người mà luyện ra, thì là nhờ cái xác phàm của ta mà lọc ra đó. Lọc cái linh hồn là đừng cho nhiểm tình phàm (sentiments humains) tới giờ hư cực tịnh đốc (arriver au calme absolu) thì máy thiên cơ phát động; kêu là nhứt dương sơ động. Phải lập đảnh an lư mà lấy thuốc đặng nấu luyện.
Luyện một trăm ngày gọi là bá nhựt trúc cơ.
Phản lão hườn đồng, cũng như mình trở lại trẻ trong lúc 15, 16 tuổi vậy, “Lậu tận thông thành”.
Chứng quả nhơn Tiên. Gọi là luyện tiểu châu thiên. Ngoại thận thục vô; hết đường dâm dục.
Ấy là tinh mãn bất tư dâm. Phải tịnh công bảy ngày, cho khí tiên thiên tụ lại hóa thành hỏa châu,
rồi lấy hỏa châu, ấy đem vô huỳnh đình là chỗ kiết thánh thai, mà luyện âm thần hóa ra dương thần.
Ấy là chiết khảm điền ly: ly khảm trở lại càn khôn. Lạc Thơ phản lại Hà Đồ.
Bậc này chứng quả Địa Tiên. – Nhơn Tiên, Địa Tiên hình thể còn trọng trược, bất ly ư địa, bất ly ư nhơn.
Phải nhập định như kê bảo noãn, như miêu bộ thử, như long dưỡng châu.
    Ngày đêm thường vậy chẳng ly thời khắc. Tới lúc sáu bảy tháng hết thở hậu thiên khí, thì hết ăn: ấy là khí mãn bất tư thực. Đại định tới chín mười tháng thì hết ngủ: ấy là thần mãn bất tư thỏa. Âm thần hóa lại dương thần. Đến lúc mười tháng gọi là thập ngoạt thai hườn đẻ Tiên tử, Phật tử. Chứng quả Thần Tiên. Biết việc quá khứ vị lai hiện tại. Điều thần xuất xác, rồi chẳng nên ham dạo chơi nơi viễn cảnh, sợ lạc Khôn Mẫu mà phải chứng tiểu quả, thiệt hại cho người tu. Xuất thiểu nhập đa.
        Chờ nhủ bộ tam niên, dương thần tán kiện thì mới vô hại, muốn đi đâu cũng đặng, mặc ý.
Ngao du bắc cực, biến hóa vô cùng, thần thông quảng đại. Chứng quả Thiên Tiên.
Chừng ấy muốn ở lại trần-thế bồi công lập đức, cứu dân thủy hỏa,
tế thế an bang bao lâu cũng được.
       Còn không muốn lo việc trần thế nữa,
thì vào danh sơn động phủ, nhập đại định thêm chín năm đặng luyện hư hườn vô,
luyện cho đến hư hư vô vô.
Thì được chứng quả Đại Giác Kim Tiên là Phật.
       Tôi luận sơ đặng chỉ việc đại khái tu luyện cho rỏ nguồn chánh đạo, chớ muốn cho thông hiểu tận tột thì phải khán đơn kinh; trong kinh ấy Tiên Phật chỉ đành rành chớ chẳng dấu ai.
        Kẻ nào vọng ngữ rằng: “nói lậu Thiên cơ thì bị Thiên khiển lôi tru” là nói đều phi lý.
Mấy người nói vậy là lòng còn tư kỷ, sợ kẻ đại căn biết lý đạo rồi có hơn mình chăng.
       Thì mình là kẻ tu hạ thừa, ai mà tôn trọng mình nữa.
Miệng nói độ người về cõi Thánh, ham đi phổ độ, dạy bậc hạ thừa làm sao mà độ về Trời cho đặng.
Rất uổng công tu, mà vạn kiếp bất đắc kiến tánh. Nói tắt một đều, muốn tu cho về cõi Thánh đặng thì bỏ tình phàm, làm như thể Trời Đất vô tình, thì vào đường Thiên lý mới đặng.
      Xét cho cùng lý: Trời Đất không già là Trời Đất vô tình mà động tịnh, nên không hao mòn tam bửu;
còn co người hữu tình động tịnh, nên lần lần hao mòn tam bửu mà phải thác.
Vậy có bài của ông Đạt Ma xuống cơ như vầy:

Đạo tâm khai tại diệt phàm tâm,
Chúng đẳng y ngôn, vật ngoại tầm;
Luyện đắc linh đơn thiên tải thọ,
Thành Tiên thành Phật quỉ thần khâm.
                          Saigon, le 1er Janvier 1923.
                              Văn Vỏ Đạo Nhơn

                                                            Trở Lại Mục Lục