50. THƯỢNG HẠ PHÂN MINH CÔNG VỚI QUẢ
                                                         Minh Cảnh Đàn
                                   Tý thời 01 tháng 04 nhuần Quý Mão (1963) 

                  THI :
CAO Tiên rọi điển độ trần mê,
ĐÀI chủ thí khoa bảng sách đề.
THƯỢNG hạ phân minh công với quả,
ĐẾ khai đề điểm chữ vàng phê.

Thầy mừng các con trung đàn đồng đẳng, các con đồng tọa thiền nghe dạy (đại tịnh).
 Các con từ thử hâm mộ tu hành, nghe Thầy hỏi :
Tại sao con phải tu, phải chịu cực, con nào biết bạch ?
MỸ bạch………………
(Cười…) Các con có tội chi, nghe Thầy giải.

                  BÀI :
Muốn Khai Đạo muôn năm Thầy định trước,
Tại thời kỳ hữu phước dân nhàn.
Hạ tuần Đại hội gần sang,
Tam nguơn xoay chuyển khắp cùng không trung.
Đạo ra đời thế cùng dân cạn,
Nỗi Âm-Dương lưu quảng tam giang.
Căn xưa thọ sắc Thiên Hoàng,
Lãnh cờ Sắc lịnh độ toàn vạn linh.
Vì thế gian lắm hình lem luốc,
Phải ban truyền điện thuốc cứu đời.
Căn lành tám hướng, năm nơi,
Ứng kỳ khảo hội lịnh Trời Sắc ban.
Mỗi linh điểm Thiên Nhan sắc tứ,
Một chiếc đò dễ dự mê giang.
Tập rèn lèo lái hoàn toàn,
Nên nhà phu trạo Thiên Nhan bái trào.
Lãnh phận sự chớ nào ai ép,
Nhưng phận hành thân khép vào khuôn.
Đó là con diễn lớp tuồng,
Tập rèn nên thể qua truông lập trường.
Căn con trẻ chẳng lường đo được,
Vì tiền duyên đức phước sẵn dành.
Hội này căn quả gắng tranh,
Tự nhiên thi thố đoạt thành bảng Tiên.
Nào phải đâu con liền nhàm chán,
Chí mộ thành phải ráng đến cùng.
Con nào lãnh chỉ trung dung,
Thể thiên hành hóa đến cùng chớ lơi.
Mỗi con trẻ số Trời đã định,
Chớ nào con sớm tính xa vời.
Nhớ lòng con cả chớ rời,
Công phu công đức hiệp lời giáo khuyên.
Thầy ban phước con siêng tu tập,
Gần con đường Thầy sắp cận hành.
Ráng bồi công đức đua tranh,
Đừng thơ thẩn lọt kẻ vành bảng Tiên.

Hôm nay Thầy nhắc lại;
Vì căn xưa của mỗi con nên mới đắc Chơn truyền, chớ ai nào chọn lựa.
Bổn phận thi hành phải gắng chí, tận nhân lực tri Thiên mạng.
Đừng biếng nhác, kẻ khác đoạt kỳ công;
Mãn khoa hội khó tìm nơi đáy biển;
Trông bấy kiếp Thiên khai Huỳnh Đạo.

                THI :
Thầy nhắc căn lành của mỗi con,
Từ đây tô điểm méo nên tròn.
Căn xưa ít có người nguyên bản,
Bảng đỏ tên vàng sử các con.
Con trẻ ghi lời luyện Bửu thơ,
Tân dân minh đức chuyển lời sơ.
Đền công chuộc quả cơ tấn hóa,
Mấy kiếp may duyên khó nỗi chờ.

Thôi Thầy ban ơn mỗi con bồ đào ngự tửu, sáng kiến tầm hiểu thấu chỗ cao siêu duyên lành hay bổn phận. Thầy mừng các con, Thầy hồi kim khuyết.
Thăng.

51. GIÁNG THĂNG LONG HỔ HIỆN NGUƠN HÀNH
                      Minh Cảnh Đàn
        Tý thời 15 tháng 04 năm Quý Mão (1963) 

                 THI :
NGÔ đồng đảnh hạt hóa màu xanh,
TIÊN Phật nhờ tu chưởng đắc thành.
ÔNG giáo Chơn truyền quy Cửu phẩm,
GIÁNG thăng Long Hổ hiện nguơn hành.

Thầy mừng các con trung đàn đồng thể.
Thầy miễn lễ các con an tọa nghe.

       TRƯỜNG THIÊN :
Đạo cao nhờ trẻ công bòn,
Thầy truyền Bí khuyết tự con siêng giồi.
Âm-Dương hỗn hiệp Thai phôi,
Là cơn sấm sét lập ngôi Cửu tòa.
Đạo huyền công ở nơi ta,
Chuyển xoay Máy Tạo điều hòa huân chưng.
Bền công khắc kỷ thuộc thuần,
Mâu Ni, Xá Lợi cấp tuần thượng thăng.
Ôn hòa ký tế hóa hoằng,
Thần kinh cảm giác đằng đằng thông lưu.
Thanh bình ôn dưỡng cần ưu,
Anh Nhi phục khí thăng lưu Nê Hườn.
Tam hoa kiết tụ thành Đơn,
Huê đà hiện xuất tắt cơn ưu sầu.
Ngày ngày bốn buổi vần châu,
Thần thông quy hợp trước cầu Thạch khê.
Sắc truyền trẻ đính lời phê,
Huyền huyền diệu diệu mê mê liễu đào.
Thần thông Pháp huệ tiêu dao,
Thăng thăng, giáng giáng vườn đào kim môn.
Bớ này các trẻ ôn tồn !
Cảm thông ứng hiện Kim môn lê đình.
Ngồi dương yểu yểu minh minh,
Trau hồn Phật Tử tượng in Thiên đài.
Tam sang Cửu khiếu đều khai,
Hứng mùa gió tốn Liên đài nhuận tươi.
Ao vàng sen nở cá cười,
Võ môn Tam cấp mấy mươi xuất trường.
Lời vàng trẻ kiếm nhiều phương,
Âm-Dương hỗn hiệp thì tường Long Hoa.
Canh trường con hội điều hòa,

Thầy thăng Kim Khuyết Thiên Tòa nhìn xem. Thăng.

 52. TRAU GƯƠNG, THÊU HẠNH MÉO NÊN TRÒN
                      Minh Cảnh Đàn
Tý thời 01 tháng 05 năm Quý Mão (1963) 

                 THI :
CAO Thiên độ tận hội Kỳ ba,
ĐÀI thượng không chen khách mị tà.
GIÁO hóa thuần phong đời Thượng cổ,
CHỦ Tâm minh đức đại tân khoa.

Thầy mừng các con trung đàn. Miễn lễ các con an tọa.

                THI :
Khoa hội gần kề ớ các con,
Trau gương, thêu hạnh méo nên tròn.
Tam kỳ ân xá Thầy ban khắp,
Đại hội tràng khai chọn bảng son.
Đông-Tây, Nam Bắc, Năm Châu hội,
Tuyển độ truyền hưng tại các con.
Bá vạn quần linh ân tứ phước,
Tam Thanh đề bảng sử son tròn.
               BÀI :
Sử son tròn tên con ứng thí,
Mỗi Nguyên căn, nguyên thỉ đồng thi.
Thi trường tam cấp Tiên y,
Võ môn khảo hội tên ghi bảng vàng.
Cả thế giới linh tràng ứng cử,
Theo lớp lang thứ tự kim khoa.
Chủ khảo Thầy ngự Bửu Tòa,
Sợi tơ đen trắng con mà chọn tay.
Thầy giáo khuyên hằng ngày nhắc nhở,
Bút cơ vàng nưng đỡ trò Tiên.
Bao la gom một chữ Điền,
Tam nguơn chuyển thể huấn truyền từ bao.
Kể từ thuở con âu thọ học,
Pháp Bí truyền chọn lọc Linh căn.
Đại Thừa xuất thế hóa hoằng,
Kim môn Tam phẩm điển lằn Thầy gieo.
Mỗi con trẻ tùy theo duyên phận,
Cấp từng phân khó lẫn lạc đài.
Công đầy quả đủ Chiếu sai,
Thừa phong Sắc lịnh Thiên đài du Tiên.
Mới thấy rõ chữ Điền âm chất,
Nên hằng khi hành thất quả công.
Bổ bồi Tam bửu đầy trong,
Ngoài thêm nặng gánh, nặng lòng ái tha.
Con y thửa lời Già khuyên nhắc,
Mỗi chuyện chi sắp đặt sẵn sàng.
Giã từ con trẻ vạn an,
Chơn Nhơn tiếp bút huyền quang tô bài.
               THI :
Bài học nằm lòng ớ trẻ thơ!
Hiến thân trọn tín chớ ơ hờ.
Tinh thần ký tế huờn Tam bửu,
Ngũ Khí triều nguơn Pháp thọ cơ.

Nhị dược siêng giồi Đơn tủa hiện,
Trần gian mùi tục chớ lòng mơ.
Mơ chi tục lụy sa tràng,
Mùi Tiên cảm ứng du nhàn tiêu dao.

Thôi các con tiếp điển có Chơn Nhơn hộ điển…
TIẾP ĐIỂN :

                THI :
LA Thông thọ tiễn bởi không tu,
NGUƠN hội Trời khai Đạo chớ mù.
CHƠN chánh con Trời, Trời tế độ,
NHƠN nào quả nấy, hưởng muôn thu.

Bần Đạo chào Sư huynh, chào Chủ Đàn, mừng chư huynh đệ. Mời an tọa.

        TRƯỜNG THIÊN :
Trời còn sông biển đều còn,
Nước non còn đó ta còn luyện tu.
Xác phàm cần mẫn công phu,
Tồn tâm, dưỡng Tánh thanh phù khí thăng.
Gìn lòng dường thể cung trăng,
Giữ tròn như thể trăng tròn mười lăm.
Tục truyền nửa tháng ngày rằm,
Đừng cho mây ám tối tăm Chơn Thần.
Tu là cội phúc Thiên ân,
Tam tài Tam giáo trọn phần gìn chung.
Thiên khai Huỳnh Đạo tương phùng,
Võ môn Tam cấp trùng phùng vạn linh.
Tam thừa Cửu phẩm thinh thinh,
Chọn căn tuyển đức công bình thiêng liêng.
PHẠM MINH cô buổi trình mờ ám,
Bảy ba lần thảm đạm u đồ.
Nhiều khi luân chuyển bồi tô,
Võ văn thuần mỹ Hà đồ chuyển xoay.
Rồi cũng phải thọ gây tội lỗi,
Đọa sa nhiều chìm nổi linh đinh.
Bấy phen chịu khổ thọ hình,
Bấy phen tu dưỡng lạc tình ái thân.
Rồi cũng phải sa lần u trược,
Hội kỳ ba hữu phước tái lai.
Ngộ truyền Đại Đạo Cao Đài,
Nhờ căn kiếp trước ngày nay thọ truyền.
Tìm Chơn lý vô duyên tuổi lớn,
Đắp bồi công nhơ bợn sạch lòng.
May thay Thượng Phụ chí công,
Đại Thừa Chơn Giáo điểm lòng rạng soi.
Tìm thấu rõ tiếng còi minh cảnh,
Khải hoàn ca trước lãnh Tam kỳ.
Giục người chí sĩ vào thi,
Tôi vào ứng cử tên ghi sổ vàng.
Đức Từ Bi linh tràng ban Pháp,
Nhờ Chơn Sư dẫn hạp Chơn truyền.
Âm-Dương ký tế huờn nguyên,
Thăng công, thưởng đức, mối giềng cao siêu.
Mãn sợ hệ, Thiên điều nương phướn,
Đức Từ Bi ung dưỡng điểm công.
Sắc ban ngộ điển bá tòng,
Giải hồi lao cảnh sửa lòng u minh.
Nay đắc lịnh điển huỳnh tá bút,
Nhắn thân nhân len lụt tu tầm.
Ơn dày, nghĩa nặng, thù thâm,
Căn nào quả nấy khó tầm huyền vi.
Vì căn cạn khó tri Chơn lý,
Khẩu tâm truyền tại thị Minh Sư.
Biết đường bồi đắp Chơn Như,
Long thăng, Hổ giáng, Đơn thư chứng thành.
Tiếc cho bấy nguyên sanh nhục tử,
Thơ đôi dòng tìm thử nơi lòng.
Lời nầy có thể niêm phong,
Vô nhân tri thức khó mong hội đàm.
Chư huynh đệ thiền tham tiến bộ,
Vui quá vui vì chỗ Chơn truyền.
Cao siêu tuyệt đối ngôi Thiên,
Bồng lai nhứt xích miên miên thọ trường.
                THI:
Kính bái Sư Huynh tại bổn trường,
Từ nầy Bồng cảnh đặng về nương.
Ơn nhờ tô điểm nhiều công đức,
Bá bái ngàn thu khó nỗi lường.
                 oOo
Lường đong ghe khẳm đối ơn dày,
Dầu kiếp phong trần thậm đắng cay.
Công đức vô biên chơn nhẫn nại,
Đây nguyền ký túc biết nào phai.
                 oOo
Nào phai đôi vận ghi lòng,
Nhắn về nhục tử gắng công hội nầy.
Giã từ bạn Đạo Đàn đây,
Chờ khi Chiếu Sắc hiệp vầy Bổn nguyên.

53. NGÔ ĐỒNG TỨ QUÍ VẠN XUÂN SANH
                   Minh Cảnh Đàn
Tý thời 15 tháng 05 năm Quý Mão (1963) 

                  THI :
NGÔ Đồng tử quí vạn xuân sanh,
TIÊN Phật vui chơn Đạo lý hành.
ÔNG phổ Chơn truyền quy Cửu phẩm,
GIÁNG thăng chẳng nệ bởi nguyên sanh.
Thầy mừng các con trung đàn đồng đẳng.

Hôm nay Thầy chứng đàn ban ân lành nguyên cơ Đạo giáo các con đồng an tọa.

                  THI :
Hữu duyên ngộ đắc Pháp tâm truyền,
Ký tế Đạo thành cũng bởi duyên.
Cao thấp, thấp cao do Đức quả,
Ôn lương Chơn Pháp phản huờn nguyên.
                   BÀI :
Thầy truyền Đạo Vô Vi cửu phẩm,
Nước hồ lô rưới tắm phong trần.
Con nào muốn đổi Pháp thân,
Phải nuơng khẩu khuyết, dãy thân thất tình.
Xác phàm phu nặng kình sơn thái,
Nhưng Thái sơn sửa cải dễ dàng.
Thân hình phàm tục chứa chan,
Khôn phân sửa đổi tợ hàng Thiên non.
Muốn nhẹ nhàng trước con rèn giũa,
Âm-Dương hòa điển bủa đốt lần.
Cháy tiêu những huyễn giả thân,
Thâu hồn chế phách hiển lần Kim Thân.
NHUNG đắc Chỉ, Chiếu ban phước triệu,
Công quả cân còn thiếu ít phần.
Cũng vì nghiệt chướng dành phân,
Nhưng Thầy tô điểm chiếc cân thưởng hồn.
Ban Sắc tứ Kim môn hội yến,
Với Chiếu phong HUỆ THIỆN NƯƠNG NƯƠNG.
Công phu luyện nấu tại trường,
Long Hoa kết quả đề chương bảng vàng.
QUẢN Thiên Tánh điển ban giúp sức,
Kíp tô bồi nan thức tri cơ.
Bấy lâu chưởng quả để chờ,
Đơm bông thành trái ngày giờ hưởng sau.
Nay đắc lịnh Chiếu ban phướn tiếp,
Phản hồi nguyên để kịp hội kỳ.
Sắc vàng cờ lịnh phướn phê,
NƯƠNG NƯƠNG THIÊN BÍCH đề huề thanh danh.
Đạo Thầy đã lập thành Kim Khuyết,
Ban mỗi con cứ việc y hành.
Tý Ngọ Mẹo Dậu luyện phanh,
Chế phách bát tiết cho rành đó con.
Sanh với khắc lão nõn tại con,
Giồi trau Tánh Mạng ghi son lời Thầy.
Đồng tử yếu điển, Đàn sau Sắc chỉ.
Thôi Thầy ban ơn mỗi con, Thầy hồi Kim Khuyết.
Thăng.

54. CAO TÙNG NHƠN NGUYỆN CHỨNG LÒNG TRUNG
                         Minh Cảnh Đàn,
             Tý thời 01 tháng 06 năm Quý Mão (1963)

                   THI :
CAO tùng nhơn nguyện chứng lòng trung,
ĐÀI độ chúng sanh nhẫn thiện tùng.
GIÁO hóa miễn đời nên vẻ Đạo,
CHỦ Tâm cứu thế tạo kỳ trung.
Thầy các con. Miễn lễ các con đồng an tọa.
                   BÀI :
Trung dung con học cho rành,
Thời kỳ ân xá tạc danh bảng vàng.
Biết bao thuở gặp đàng Thiên lộ,
Khó nỗi tìm đến chỗ nguồn Tiên.
Con ôi lóng rõ lời truyền!
Vàng con dễ chuộng, lời Tiên khó cầu.
Đời mạt kiếp Đạo âu cứu thế,
Đời rã tan Đạo để chuẩn nguy.
Hạ nguơn chuyển lập Tam Kỳ,
Căn xưa kiếp cũ thoát ly nghiệt đài.
Con nam nữ đua tài thi thố,
Lập kỳ công cứu độ quần sanh.
Ghi công Thánh huấn đành rành,
Làm gương mẫu kiểu Thầy dành hậu lưu.
Thôi mãn giờ con ưu tiếp điển,
Sắc Thiên Quân lai điện tiếp cơ.

Các con ghi nhớ Thầy ban ân trung đàn, Thầy hồi Kim Khuyết .
TIẾP ĐIỂN :

                THI :
THIÊN nguyện từ lâu mới xuống trần,
PHÁP mầu biến hóa có bao lâu.
THIÊN ban Sắc tứ phàm vi Thánh,
QUÂN mạng người ôi gắng chí âu!

Bổn chức đắc lịnh lai đàn. Chào Sư Huynh chủ đàn, phò loan nhị vị, độc giả diễn văn,
Đạo đồng huynh tỷ. Mời lưỡng đàn an tọa.

               BÀI :
Thật là huyền diệu cao siêu,
Trời cao, đất thấp, biết chiều gần bên.
Tiên với tục hai tên muôn vực,
Dễ ai tìm tin tức đáo lai.
Biết đâu ai ngỡ là ai,
Nhờ tu kết thúc, Thiên Đài du Tiên.
Ngộ bí truyền là duyên tiền định,
Cổi bảy tình ngoài kín trong trong.
Nhành dương rửa tắm sạch lòng,
Tiên gia thông cảm trần hồng lìa mơ.
Đại Đạo ra phướn phơ phất vũ,
Ai căn lành đức đủ kề nương.
Gìn tâm cạn sạch ghi xương,
Rồi sau sẽ rõ tận tường lời Tiên.
Mãn giờ xin kiếu Đạo thiền,
Nương Nương tiếp bút môn thiền kiếu thăng.

TIẾP ĐIỂN :

               THI :
HUỆ rồi mới thấy cảnh trần u,
THIỆN nguyện tầm Tiên thoát lưới dù.
NƯƠNG phướn Tam Kỳ lên chín phẩm,
NƯƠNG cơ siêu việt Pháp thân tu.

Nương Nương chào Sư Tỷ. Miễn lễ, mừng đồng đạo lưỡng biên, mời an tọa.

      TRƯỜNG THIÊN :
Càn Khôn Tạo Hóa khéo bày,
Bức tranh vân cẩu đổi thay liền liền.
Khi đọng lại thiên nhiên rực rỡ,
Khi phai màu tở mở vạn hình.
Bầu trời rộng hoát chinh chinh,
Ai người khán giả lòng in tạc lòng.
Dây oan trái giải đồng mở sạch,
Nhờ Trời Cha chỉ vạch đường Tiên.
Chung nhau đến hội cửa thiền,
Tìm phương giải thoát tiền duyên mộng trần.
Nay đắc lịnh dựa gần Diêu Điện,
Ngày cùng đêm tu luyện hà xa.
Ngày đêm rèn giũa điều hòa,
Âm-Dương hai khối tinh ba lược đồng.
Ai ở thế lòng không mến thế,
Ôi ai ôi lời thệ chớ sơ!
Ai người trí thức đừng ngơ,
Tên bia lộ ứng Thiên thơ chữ vàng.
Nhắn chung trẻ gia đàng nam nữ,
Đạo Tam cang cư xử vẹn xong.
Gìn ghi nhơn nghĩa đại đồng,
Duyên nào, quả nấy tại lòng tạo gây.
Đạo chuyển khắp Đông-Tây-Nam-Bắc,
Chọn trường Tiên chiếm đắc căn lành.
Cha Trời độ tận chúng sanh,
Không tu, không đắc có hành thì siêu.
Nay huyết mẫu Thiên Triều vọng bái,
Nhìn con thơ ở lại trần gian.
Con ôi Tiên tục hai đàng!
Thương thì để dạ khó toan ẵm bồng.
Bởi thất tình nặng đồng sơn thái,
Thái sơn còn dời cải dễ dàng.
Hết lời nhũ mẫu riêng than,
Nếu con tránh bẫy hiệp đoàn có khi.
                 THI :
Kính bái Sư Nương đức háo nhiên,
Công phu vạch rõ cửa môn thiền.
Biết đường ngộ đắc Kim Đơn đạo,
Nhớ lời chỉ chăm bí khuyết Thiên.
                oOo 
Thiên địa vô tư mặc khả vong,
Nghiêng mình bái tạ Đạo giai đồng.
Giấu che xác tục không hề nại,
Kính bái tình thâm, đức mặn nồng.
              NGÂM :
Nồng nồng văn diễn thô sơ,
Đôi vần lạc lẽo đề thơ gởi về.
Hết giờ bút điểm mơ mơ,…

TIẾP ĐIỂN :

                  THI :
THIỆN chí mới là bực vĩ nhân,
BÍCH môn tu dưỡng chưởng Nguơn Thần.
NƯƠNG đàng Đạo cả tầm Chơn Lý,
NƯƠNG cụm phù vân luyện hóa thân.
                 oOo
Hóa thân nhị thể hiệp Âm-Dương,
Nhờ đấy khêu to sáng bước đường.
Chữ Nhẫn, chữ Hòa là thậm trọng,
Hai đàng thương ghét, ghét rồi thương.
                  BÀI :
Thương ai bằng Chí Tôn Tạo Hóa,
Thương vạn linh thương cả hoàn cầu.
Thương phần trầm vực ao sâu,
Bờ biên, bến giác khó hầu trườn lên.
Nhà Đại Đạo tuổi tên đính bảng,
Nhờ chút căn giải đoạn sầu u.
Biết gìn lề lối công phu,
Công trình, công đức tịnh tu kịp kỳ.
Tôi đắc lịnh phướn ghi, Chiếu triệu,
Nhờ công phu bảng kiểu Thầy truyền.
Khổ vì giả huyễn thân chuyên,
Nhờ ơn Sư Phụ tiếp liên động đào.
Nhờ chữ TU giải mau nghiệp chướng,
Lối Tiên phàm nghĩ tưởng bao xa.
Bởi tâm không tượng điều hòa,
Khó tường huyễn cảnh khó mà rạng minh.
Chư Đạo tâm thâm tình tri kỷ,
Ngày hôm nay Tiên thị ghi chương.
Biết sao kể hết cho tường,
Ơn dày Sư phụ đo lường thậm thâm.
Thơ đôi vế bỗng trầm ghi nhớ,
Nhắn đôi vần mẫu nhủ đề thơ.
Con ôi hai chữ ngây thơ,
Quyên sinh với Đạo tri cơ chạm lòng.
Nay huyết mẫu đề phong thơ nhạn,
Gởi về con phải ráng nằm lòng.
Thầy là “huyền diệu không không”,
Âm-Dương ký tế con mong luyện đầy.
Con cố gắng trên Thầy ứng hóa,
Rồi gần đây con má vầy vui.
Nói thôi lụy ứa sụt sùi,
Mãn giờ khó nỗi tiện vui tiền đàn.
               THI :
Đàn nội đôi vần bái Tỷ Sư,
Khổ lòng dầu dãi giải Chơn Như.
Hôm nay đệ tử về Tiên cảnh,
Nhờ đức từ tâm điểm vẹn lư.
             NGÂM :
An lư huynh đệ trung đàn,
Bần Nương kiếu xuất điển vàng phi thăng .

 Trở Lại Mục Lục