THI : MINH kinh, KHAI điển, GIÁC CHƠN tâm. MINH chiếu dạ lòng tránh lỗi lầm.
Tánh thiện, mạng lành hườn nhứt khí.
KIM TIÊN thường lạc chốn thiền lâm.
Huynh GIÁC MINH, có MINH KHAI và còn cả KHAI GIÁC nữa, đồng viếng thăm Lễ Đàn Tất Niên và chào mừng tất cả hiền đệ, hiền muội.
Chư đệ muội ! Khoan dâng rượu lễ. Hãy cùng nhau cẩn trọng, nghiêm đàn để kỉnh thành lo đón mừng thánh giá của ĐẠI TỪ PHỤ. Nhớ đọc bài Mừng !
THI :
Lý luận hư vô khí hỗn nguyên,
Điểm Trung, Thái Cực, thể linh huyền. ĐẠI hùng luyện tánh kiêm tu mạng, TỪ PHỤ ân oai giảng Lý Huyền.
CAO ĐÀI THƯỢNG ĐẾ - ĐẠI TỪ PHỤ.
Thầy các con, Thầy và chư Tiên Phật đồng mừng các con.
Thầy chứng chiếu lòng kỉnh thành của các con đã đảnh lễ Đàn Tất Niên Giáp Thân. Thầy ban đại hồng ân và mẫn huệ cho các con ngày càng hiểu đạo hơn và hiểu sao thường gọi là Song Tu Huệ Mạng !
Thầy miễn lễ. Các con khá đại tịnh để nghe về Lý Thái Cực, về lẽ Một.
Này các trẻ tu tâm ! Các con khá hằng gắng công học lý đạo cho minh. Điều đó rất là cần thiết cho đời tu. Hiểu biết lý đạo càng rạch ròi, tường tận thì tâm linh càng thêm sáng suốt, đức tin càng kiên định, sắt son và bước đường của các con trên chiều hướng thượng càng thêm vững chắc.
Hãy nghe !
THI :
Vô Cực Tiên Thiên Nhứt Khí hằng,
Hiển dương Thái Cực tuyệt huyền năng.
Vô thanh, vô xú, vô hình hạn.
Lý Khí, Âm Dương chuyển giáng thăng.
THI :
Tánh, Tâm, Thần ngược về Nguyên Lý.
Mạng, Tức, Khí nguồn là Nguyên Khí.
Tánh Mạng song tu, bản đạo huyền.
Phục hườn bản thể Tiên Thiên Khí.
Các con ! Luận vô vi, trừu tượng về Thầy thì tùy vào căn cơ, duyên huệ mà các con khá gia công tìm rộng hiểu về Thầy. Thầy là Đạo, Thầy là Thái Cực. Đó là Huyền Thể tinh nhứt, vô thinh, vô xú, vô hình, vô hạn, rất tuyệt linh, tuyệt diệu.
Huyền thể đó gọi là Đại Linh Quang, Tiên Thiên Chánh Lý, Tiên Thiên Nhứt Khí hay Khí Tiên Thiên Chơn Nhứt mà lại có huyền năng sanh hóa vượt ngoài tầm mức tri giác của các con.
Cái tính khí minh linh đó là ẩn tàng, bao hàm và phối hợp được hai Huyền Lực gọi là Nguyên Lý và Nguyên Khí.
Hai huyền lực này, Lý và Khí được kinh điển minh triết hình dung là một ở trong và một ở ngoài Trung Tâm Điểm của một vòng tròn trống rỗng. Cả hai : một lên một xuống, một vào một ra, một qua một lại, luôn luôn tương giao, tương tiếp, không bao giờ tuyệt diệt nhau, để sản tạo Trời Đất, Vạn Vật và Người mà Bản Thể Thái Cực lồng vào mà không hề suy suyễn.
Các con hãy nghe bài ngắn gọn !
BÀI :
Luận vô vi, Thầy là Thái Cực.
Bàn xa hơn, Vô Cực chính Thầy.
Tiên Thiên Chánh Lý cũng Thầy.
Tiên Thiên Nhứt Khí vẫn Thầy đó con !
Tuyệt minh linh, vòng tròn nhứt khí.
Ròng chơn dương, tuyệt mỹ, toàn năng.
Hàm tàng Lý, Khí huyền năng.
Hỗ tương, hỗ nhượng, vĩnh hằng huyền linh.
Vận Lý Khí, hóa sanh vạn hữu.
Đại Linh Quang, diệu hữu lồng vào.
Bên trong vạn vật muôn màu,
Mà Tiên Thiên Khí chẳng hao chẳng mòn.
Lý ẩn tàng Càn Khôn vũ trụ,
Khí lộ hình bày đủ sắc màu.
Âm Dương đun đẩy, tương giao.
Đó là Tánh, Mạng lồng vào Nhơn Sanh.
Vậy ở các con, Thái Cực là Tâm của các con và Tiểu Linh Quang cũng đã bao hàm Nguyên Lý và Nguyên Khí nhưng đặc biệt ở Nhơn Sanh thì Lý được gọi là Tánh và Khí được gọi là Mạng. Có điều :
Ở bậc Đại Giác hay thuộc cảnh Tiên Thiên thì Tánh và Mạng đó được huân chưng hiệp lại thành một thể tinh nhứt như Tiên Thiên Khí của Thầy.
Còn ở phàm nhơn hay thuộc cảnh Hậu Thiên, vì Ngôi Trung đã bị thiên lệch vì khí chất hay nhơn dục thì Tánh và Mạng đã lìa nhau rồi. Vì vậy kinh điển và Minh Triết thường gọi :
Ở Tiên Thiên : Tánh và Lý, Nguyên Lý hay Nguyên Thần còn Mạng là Khí, Nguyên Khí.
Ở Hậu Thiên : Tánh là lòng dạ, tâm địa, là Tâm và Tánh trong tâm. Còn Mạng là hơi thở, tức hay là tinh và khí ở chiếc thân tứ đại.
Cho nên các con Song Tu Tánh Mạng là khổ luyện sao cho Nguyên Lý và Nguyên Khí trở lại đồng cân, đồng lượng, huân chưng và kết hợp lại thành một thể tinh nhứt như bản thể của Thái Cực.
Thầy điểm các con !
THI :
HƯỜNG, LOAN (1), CẨM,TRẠCH hưởng HỒNG ân
Nhứt đức HIỆP, LOAN (2), ÚT mẫn cần.
Tham lý, khế từ NGUYÊN khá nhớ !
VĂN thao, hào KIỆT định tâm an.
Các con đọc Chốn Bồng Lai để mừng Thầy và chư Tiên Phật.
(đọc đến : …Cuộc cờ vô sự anh hào dễ ghê)
Này các con, qua lược giải trên, các con khá suy nghiệm sâu mà đơn giản lại về Thầy !
Thái Cực là trước Cực, chưa có Cực, là trạng thái chưa phân MỘT thành Hai Cực, Bốn, Tám và nhiều Cực nữa… Khá nhiếp tâm, cốt lõi là Thái Cực trang lìm, bất động ! Các con tu là tập cho lòng dạ trở nên im hơi, bằng bặt, mông mênh, vô hạn, an nhiên, yên tĩnh, như Thái Cực mà Nguyên Lý và Nguyên Khí còn đang hàm tàng trang lặng, bằng phẳng, không hề chinh nghiêng.
Các con đồng nghe Kệ ngắn và ngâm nga ở lúc khó khăn, bận bịu :
KỆ :
Giữ lòng chớ để nghiêng chinh !
Chinh nghiêng là ý kết minh dục tình.
Các con ! Hư thiệt phải rành,
Hành tàng khá rõ mà gìn tâm âm.
Ý thanh, ý trược chớ lầm.
Tóc tơ ở giữa phăng tầm cho ra.
Lảng lơ, e phải Ta-bà.
Ta-bà thân khẩu, Ta-bà tâm âm.
Đó là ý mãi chẳng đằm,
Bước đường hành giả, thăng trầm khó phân.
* * *
Giảng lý huyền Giáp Thân Niên Tất,
Trẻ của thầy, nhất dạ suy cầu !
Đại hồng ân, kìa Bồ Đào !
Thầy ban các trẻ hùng hào lo tu.
ĐÀN TÂN NIÊN ẤT DẬU
& KỈ NIỆM NGÀY GIÁNG SANH CỦA THẦY
Đạo hữu MINH KIỆT xin keo Nhị Bộ : chưa được.
Đạo hữu CÚC xin keo Nhị Bộ : chưa được.
Đạo hữu SẮC xin keo Nhị Bộ : chưa được.
Đạo hữu THÀNH xin keo Nhị Bộ : được.
THI :
Nhứt khiếu linh KHAI, NGỘ lý huyền.
VIÊN MINH tánh mạng, phục tiên thiên.
GIÁC tâm hành ĐẠO, kềm NHƠN dục,
Tựu Chánh, đạt CHƠN, ấy Phật TIÊN !
Huynh VIÊN MINH và NGỘ MINH với KHAI GIÁC, đồng viếng thăm tất cả hiền đệ và hiền muội.
Chớ dâng Bồ Đào, để Huynh chúc mừng chư đệ muội vài diều, nhân Lễ Đàn Tân Niên Ất Dậu này !
Huynh miễn lễ, thử nghe !
THI :
Xuân thế nhân đến, rồi rời khỏi.
Người tu tâm có mỗi hướng thôi.
Là hằng hành tập Đạo Trời,
Hoàn thành hoài bão một đời Tâm Xuân.
Chúc đệ muội mẫn cần, nhứt đức !
Ất Dậu này, nhứt nhứt khá thông !
Chúc cho lòng trống, dạ trong,
Bớt đi dính cảnh, giảm mong, dục, cầu !
Thôi, chư đệ muội hãy cẩn thành nghiêm đàn, lo đọc bài, mừng để đón mừng SƯ PHỤ.
THI : CAO giữ lặng trang thảm dạ lòng, ĐÀI im, bằng bặt, trống mênh mông. TIÊN ÔNG phân cách, chia ly niệm
Tạo khoảng nhiệm màu, khoảng Diệu Không !
CAO ĐÀI TIÊN ÔNG – NGÔ TIÊN ÔNG.
Thầy các con, Thầy và Chư Tiên Phật đồng mừng các con.
Thầy chứng lòng thành của các con và điểm dạ kính cẩn của các con đã tưởng đến ngày Thầy đã giáng sanh, lo đàn Lễ Tân Niên Ất Dậu.
Thầy ban đại hồng ân cho các con hằng nhớ gìn phận tu tam. Có giữ được tâm Trung Chánh, thanh tịnh thì mới có thể tiêu dao, lạc đạo.
Thầy miễn lễ. Các con khá nghiêm đàn, đại tịnh nghe ! Thầy cũng điểm lòng thành của các con đến ngày tưởng Thầy phê trang bài mới. Tất cả hãy nghe một vài lý đạo sau !
THI :
Đạt Diệu Không nhờ pháp tọa vong,
Pháp luân thường chuyển, ý xoay vòng.
Để cho tâm tức càng nhuần nhuyễn,
Đắc pháp trường sanh đáo Nhược Bồng.
HỰU :
Tánh ngay giữa chợ, trau cho sáng.
Mạng chốn đơn phòng, luyện được tròn.
Tánh sáng, Mạng tròn hườn nhứt khí.
Chơn Như ngời rạng đắc Kim Đơn.
Này các con ! Vẫn là hằng nhủ các con chớ quên pháp tu của Thầy là đời đạo song hành và Song Tu Tánh Mạng. Cứu cánh là hai lẽ Âm Dương,
Lý Khí hay Tánh và Mạng cần được đồng lượng, huân chưng thì mới có thể phục hườn Nhứt Khí Tiên Thiên. Khá nhớ ! THÀNH nghe ! Các con Nhị Bộ cũng ôn lại !
THI :
Ngắm Phật Tử trong khung bộ chiết,
Ý càng đằm bám sát vòng châu.
Tịnh nhiều động ít là mầu,
Điều hơi khá nhớ chậm, sâu, nhẹ, đều.
Khí Hạo Nhiên mỹ miều theo ý,
Là tức tâm, thần khí huân chưng.
Từng vòng khí đến nửa lừng,
Vô thanh hơi mới phóng tung muôn chiều.
Là tập lòng tịch liêu, vắng ngắt.
Phẳng, mênh mông, bằng bặt, lặng trang.
Không gian cùng với thời gian,
Như lồng Trung Điểm, dọn đàng yểu minh.
Các con hãy đọc Chốn Bồng Lai để đưa chư Tiên Phật.
(đọc đến câu : …Gió hòa trăng rạng, nước người nhớ xưa)
Các con ! Nay đầu Xuân, Thầy điểm. Các con khá nghiệm hiểu :
SỬ !
THI :
Ân chiếu SỬ, con bước cuối đường.
Vẫn gìn son sắt, đạo chiêu chương.
Oai ban trẻ mãi Bi, Hùng, Lực.
Để tựu chánh và đạt lạc thường.
HỒNG, LOAN (1) !
THI :
Người là ngoại cảnh đối tu tâm,
Hiểu được HỒNG, LOAN (1) chớ để lầm !
Tỉnh thức thì nào nghiêng ngửa dạ,
Lảng lơ e khó hiểu thăng trầm !
VĂN, NGUYÊN !
THI :
VĂN con, dịu tánh ấy trò ngoan.
Từng bước về Thầy mới dễ dàng.
Công chánh, nghiêm minh, NGUYÊN khá tập.
Luyện lòng từ ái, rạng linh quang.
TRẠCH, CẨM !
THI :
Ước nguyền minh chiếu tập Đường Ngu,
CẨM, TRẠCH hằng lo vẹt ám mù.
Từ, Lý, Trung đồng tham khế đó.
Mới mong dễ rạng tỏ Chơn Như.
ÚT !
THI :
Tâm đạo nhuần cân phân sự việc,
ÚT con minh định đâu hư thiệt.
HƯỜNG nghe !
THI :
Nhắc HƯỜNG, khử trược khá đừng quên !
Bằng bặt, vô thanh là diệu khuyết.
KIỆT khá nghiệm !
THI :
KIỆT hào nguyện ước thảnh thơi,
Thảnh thơi đời sống, thảnh thơi tu hành.
Chiếc thân khá giữ mạnh lành !
Song tu đời đạo mới hanh thông nào.
Định minh hư thiệt thật sâu,
Học buông, học xả bắt cầu Bồng Lai.
Tu tâm thao lược hùng tài,
Đoái hoài chữ Đủ, nào hoài thừa dư.
Nhơn tâm, nhơn dục ám mù.
Lần hồi con vẹt, Chơn Như rạng dần.
LOAN (2), HIỆP cùng nghe !
KỆ :
Dấu mòn còn đó,
Huynh Tỷ kề bên.
LOAN (2), HIỆP tầm Tiên.
Khá hằng cố gắng !
Đạo tâm quyết thắng,
Chiến thắng chính mình.
Thắng tư dục mình,
Học đòi Hiền Thánh.
Ý phàm ý Thánh,
Cách tợ tóc tơ.
Chớ khá ơ hờ !
Đường tu nhiều khó.
CÚC nghe !
THI :
CÚC học đạo là sổ nét Trung,
Không thiên không lệch chẳng lay lung !
Nhứt tâm, nhứt đức trì duyên pháp.
Mới giữ tròn vẹn điểm chấm Trung.
SẮC !
THI :
Ôn cố, tri tân giữa điển kinh.
Thanh quang Chơn Lý giữa lung linh.
Tào khang trọn vẹn đời và đạo,
Là sóng bước tu học đạo minh.
THÀNH !
THI :
Thầy trên vạch sẵn con đường,
THÀNH con cảm hiểu liệu lường mà tu.
Sao cho lòng tợ trăng thu !
Linh quang dần rạng, phá mù trần lao.
Nay con đã trọn pháp mầu,
Kỉnh thành, kín cất tria trau đêm ngày.
QUỲNH ANH !
THI :
Pháp công phu, ANH thư nghiệm kỹ !
Ý đơn thuần, điều khí xuống lên.
Chậm, đều, sâu, nhẹ chớ quên !
Lòng dần vắng niệm là nền bần thanh.
Các con đồng nghe !
THI :
Đàn Tân Niên, điển lành Thầy bố.
Rưới Ma-ha vào chỗ rượu Đào.
Thưởng ban các trẻ đạo Cao,
Xăm soi Tánh Mạng, tiêu dao lạc thường.
THI :
Khí thâm hậu với Tức điều hòa,
Thì Mạng lâu bền, vững chắc mà.
Thần tụ ngưng nơi Tâm rỗng niệm,
Tánh càng thêm sáng, gấm thêm hoa.
Khá để ý : Khí, Tức, Mạng và Thần, Tâm, Tánh !
Này chư đệ muội ! Tùy huệ duyên, tu tâm cũng khá ít nhiều suy nghiệm đạo lý về mặt vô vi, hay trừu tượng. Ví như hai chữ Tiên Thiên và Hậu Thiên.
Đây, Huynh giải như sau : Đệ muội nhớ, Vạn Hữu chứa Thái Cực.
Ở Nhơn Sanh thì Thái Cực là Tâm Trung của nhơn loại, là Tâm Điểm của nhân thân để điều khiển mọi hoạt động của con người, từ sinh lý cho đến tâm lý, tức là mọi ứng hóa, hiện hành của con người đối với bên trong và bên ngoài của cái thân. Hai chữ Tiên Thiên là nói đến thời kỳ trước khi sanh ra Thân.
Ở Nhơn Sanh, vào giai đoạn thai bào, Lý và Khí hay là Nguyên Lý hoặc Nguyên Thần và Nguyên Khí, mà kinh điển gọi là Nguyên Tánh hoặc Tánh và Nguyên Khí hoặc Mạng, đều sẵn có đủ. Tuy chưa có dấu hình rõ ràng, cả hai Lý và Khí lại sẵn sàng phân chia nhưng cả hai vẫn còn đang là một hàm tàng trong trọn cái huyền thể của Thái Cực. Còn Hậu Thiên là chỉ giai đoạn sau khi sanh ra Thân.
Lúc đầu vừa mới sanh, Tiên Thiên và Hậu Thiên vẫn còn hiệp làm một. Có điều, Tiên Thiên là chủ động cho nên anh nhi hay trẻ thơ rất thiện lành, chẳng có biện biệt Ngã Nhân. Tuy có vui, buồn, mừng, giận nhưng chỉ qua đi trong giây phút. Đó thật là như vô tâm, thật là chẳng cố ý. Đây là giai đoạn Tánh là Mạng, Mạng là Tánh mà Trời đã ban cho mọi người.
Sau đó, khi trẻ ngày càng sanh trưởng thì khí Tiên Thiên sẽ dần dần đạt thịnh còn khí âm Hậu Thiên bắt đầu sanh và tăng trưởng. Thể hiện đó là vì lục căn ngày càng tiếp xúc với cảnh trần, lục trần lần lần hiện rõ, lục thức càng thêm đầy đủ và lục thất ngày càng dấy động rồi cứ lộng hành. Thần Khí lần lần hao hụt. Nếu chẳng kịp thời tiết dục thì tâm sẽ mê loạn, ý cứ hoang dại, phóng túng, âm khí Hậu Thiên đến cực thịnh, còn dương khí Tiên Thiên phải tuyệt. Đó gọi là Tánh Mạng đã lìa nhau.
Cho nên pháp tu của Thầy được gọi là Song Tu Tánh Mạng,
để làm rành rẽ hai lẽ Âm Dương, để gia công nghịch hành làm cho Lý Khí trở lại đồng cân,
tương tiếp, huân chưng tợ như trong huyền thể Thái Cực.
Chư đệ muội khá nghiệm ! Hãy nghe bài :
THI BÀI :
Chư đệ muội ! Sống đời học đạo,
Khá tùy duyên tìm thạo cơ Trời.
Âm Dương hai lẽ đạo đời,
Huân chưng, tương tiếp, đạo đời hanh thông.
Thế nhân sống giữa lòng Trời Đất,
Có tâm linh, Thái Cực rõ ràng.
Nơi Thân, Lý Khí ẩn tàng.
Cưỡng danh Tánh Mạng trong đàn Nhơn Sanh.
Ở Đại Giác, Đại Thành, Bậc Thánh.
Tánh Mạng thì phục cảnh Tiên Thiên.
Huân chưng, đồng lượng, như nhiên.
Khác chi Nhứt Khí Tiên Thiên ban đầu.
Còn phàm phu hay đâu Mạng Tánh !
Đã lìa nhau, bày cảnh Hậu Thiên.
Nhiễm vương khí chất triền miên,
Sổ Trung chẳng đứng, lệch thiên đủ điều.
Đệ muội nhớ, hai điều khá nhớ !
Có việc chi hỏi ở Lương Tâm.
Phục tùng Lương Tánh, Lương Tâm.
Là phương Lý Tánh dần dần thanh quang.
Phép tọa vọng vốn đàng tu Mạng,
Tập dạ lòng vô hạn, mênh mông.
Im hơi, bằng bặt, trống không.
Rỗng trơn niệm lự, diệu không giống Thầy.
Tu Tánh là tập hay, bỏ dở.
Luyện Mạng là gắn bó công phu.
Song Tu là phép vẹt mù,
Không phương nào khác đời tu cậy nhờ !
Này đệ muội ! Đến giờ hoan ẩm,
Vui men Đào, cùng ngẫm lý sâu.
Âm Dương hai lẽ nhiệm mầu,
Gia công hành nghịch, hồi đầu cung Đâu.
ĐÀN KỶ NIỆM NGÀY THẦY QUI LIỄU
Đạo hữu MINH HIỆP xin keo 100 ngày : chưa được.
Đạo hữu MINH LOAN (2) xin keo 100 ngày : được.
THI : NGỘ đạo, KHAI tâm sửa tánh tình.
Chiếu minh lòng định việc cho MINH. GIÁC chơn chánh lý, hành CHƠN ĐẠO,
TIÊN vốn phàm NHƠN sửa được mình.
Bần đạo là NGỘ MINH, có cả KHAI GIÁC đồng viếng thăm tất cả hiền hữu. Chớ dâng rượu lễ,
để bần đạo có vài lời :
THI :
Mừng chư hiền cùng huynh Minh Sử,
Nẻo chánh chơn thì cứ mà đi !
Lối mòn lên núi cứ đi !
Đi thường, đi mãi lối đi thành đường.
Chư hiền khá đọc bài Mừng để đón mừng SƯ PHỤ.
THI : NGÔ cố điều tư, tiết dục luôn. CAO ĐÀI MINH dạ mãi nguôi hờn. TIÊN CHIÊU hàng lục, thâu hồi thất. ÔNG mặc nhiên thành đuốc lý chơn.
CAO ĐÀI TIÊN ÔNG – NGÔ MINH CHIÊU.
Thầy các con, Thầy mừng chung các con và chư Tiên Phật cũng đồng mừng các con.
Thầy chứng lễ Đàn và lòng thành kỉnh của các con nhơn các con tưởng nhớ đến ngày Thầy đã qui liễu. Thầy ban đại hồng ân cho các con luôn nhiếp tâm nhớ :
Tu tâm là huân đạo tập cho lòng dạ được thiểu tư, quả dục.
Thầy miễn lễ để các con đại tịnh nghe dạy !
THI :
Kinh pháp giản đơn, chẳng vẽ vời.
Là gương Cảm Ứng tự người soi.
Là Tâm Tức để thâu thần khí,
Tạo được lạc thường giữa thế đời.
Các con ! Đàn lễ nay Thầy nhắc : Thầy lập đạo ra một cách rạch ròi cho mọi người đều tu được. Chỉ là một Kinh, một Pháp và một Tâm thành bền chí hay một Ý chí chánh chơn kiên định để y hành. Đó là trọn vẹn một đời gìn tâm giữ ý. Đó là Tâm Linh thay thế cho Sắt trong Sắt Cục Mài Kim hay là thế chỗ cho Đá trong Nước Chảy Đá Mòn. Khá hiểu !
HIỆP nghe !
THI :
HIỆP nay khởi tập kiềm tư dục,
Ải keo là giây phút thử lòng.
Để cho keo chửa bận lòng,
Thì con phải nghiệm trống lòng là chi ?
Tu tâm là chẳng vì cái khó,
Mà Ý quên lơ, bỏ tịnh thanh.
Thế nào hai chữ Tịnh Thanh ?
Tịnh tư, Thanh dục, nhàn thanh giữa đời.
LOAN (2) khá nghe !
THI :
Đã một trăm ngày bước thấp cao,
LOAN (2) nay quyết được hướng cung Đâu.
Tâm kinh, Tiên tửu, Thầy ban trẻ.
Là chứng chiếu con vượt ải đầu.
Thọ duyên pháp, giữ màu chung thủy.
Khá nhứt tâm, giữ ý y hành.
SỬ nghe thi !
THI :
Bốn lăm năm SỬ học thanh bần,
Một dạ tưởng Thầy để tập nhàn.
Gìn Ý, Khẩu, Thân mong tựu chánh.
Cuối đời vẹn, phải hiệp Thiên Nhân.
Các con ! Khá đọc bài Chốn Bồng Lai để tiễn đưa chư Tiên Phật. (đọc đến : …Tây nâng bầu cúc, chân lần vừng mây)
Các con nghe !
THI BÀI :
Lần vào tâm nội, đạt phương xuất trần.
Rồi mặc nhiên, trước đàn hậu học.
Gương Chân Nhân thành đuốc soi đường.
Cho người tỉnh giấc hoàn lương,
Nhứt tâm sống đạo, tìm đường siêu sinh.
Là huân tập tâm linh thoát tục,
Nhờ dạ lòng tiết dục, chế phiền.
Một đời lạc đạo nhàn yên,
Tánh tròn, Mạng sáng, diệu huyền như nhiên.
Gương Cảm Ứng, người hiền soi lấy.
Tập Công Bình - Bác Ái - Từ Bi.
Đại hùng, đại lực, đại bi.
Là phương hướng thượng, huệ tri Đất Trời.
Pho kinh Cảm phơi lời bày lẽ,
Là khuếch trương Trí, Lễ, Nghĩa, Nhân.
Khẩu, Thân dời dạt cân phân.
Nhớ kềm cho Ý đến gần Điểm Trung !
Thâu dục tình về cùng cội Tánh,
Thì nghiêm minh, công chánh giữa đời.
Chẳng vương biện biệt đầy vơi,
Không thiên không lệch, rạng ngời linh quang.
Nơi đơn phòng, bế quan bốn buổi.
Cố tập ngừa ngăn suối niệm trào.
Là đem Lục Tự thế vào,
Rồi Tâm Tức khéo dưỡng thâu khí thần.
Các con ! Nghe Thầy điểm mà chiếu minh lòng mình và lo tu sửa :
THI :
HỒNG ! Đã rõ tu cần tiết dục,
Hễ quyết tâm, nào chút se lòng !
VĂN hay mong vẽ vuông vòng,
Kiềm cho nguội dạ, trống lòng mới nên.
SỬ, khá nhớ tảng nền đơn sái !
Là tỉnh mà lại phải bặt thanh.
Còn NGUYÊN hờn trộn thất tình,
Tình thì công chánh, nghiêm minh đâu nào ?
LOAN (1) hiện cảnh lược thao quên được,
Thì mới mong thường lạc thanh bần.
ÚT cần hiểu Ý, Khẩu, Thân.
Thì con dễ thoát hồng trần phiền phân.
TRẠCH luyện ý dần dần ý định,
Mỗi làn hơi hoàn chỉnh vòng châu.
Càng đơn giản, diệu càng sâu.
Cái vòng Tâm Tức nhiệm mầu, yểu minh.
CẨM khá hằng tập minh lý đạo,
Minh Lý thì dễ tháo trần duyên.
KIỆT con nghiệm chữ Như Nhiên,
Bớt đi mong muốn, lòng yên dạ nhàn.
HIỆP, LOAN (2) khá chuyên cần tiến bước.
Thầy đã ban ân phước cùng tu.
Sánh vai, sóng bước vẹt mù.
Dắt nhau dìu dẫn học nhu, tập hiền.
* * *
Tưởng gương Thầy, đời nên đạo vẹn.
Các con ngoan, nguyện hẹn chính mình.
Bồ đề, phiền não tự mình.
An nhiên, bận bịu do mình đó thôi !
Lễ Đàn tất, trẻ vui rượu lễ !
THI : CAO ĐÀI như ngọc ở lòng con,
Hằng chiếu lung linh ánh đạo Chơn. TIÊN Phật trau tria, trân quí ngọc. ÔNG dồi mài ngọc, chí không sờn.
CAO ĐÀI TIÊN ÔNG – NGÔ TIÊN ÔNG. Thầy các con, Thầy mừng các con.
Thầy ban hồng ân chung cho các con an phận thủ thường lo tu.
Thầy miễn lễ. Các con khá nghiêm đàn, đại tịnh nghe !
Đàn lễ nay, Thầy nhắc các con vài điều. Hãy nghe !
THI :
Cả kinh, cả pháp toan gìn ý.
Tròn đạo vuông đời bồi dưỡng tâm.
Một chí bền đi cho đến cuối,
Lực hùng, bi, khí khắc nhơn tâm.
Này các con ! Phận tu tâm là hằng thường gìn cái ý sao cho Thân Khẩu Ý được hài hòa và đúng đắn theo chiều hướng thượng, thanh cao của chiếc thang Đạo Trời.
Việc sống đời học đạo đó như là việc gia công của một thợ châu ngọc, luôn trì chí trau tria trân châu, bền gan dồi mài ngọc quí sao cho châu ngọc ngày càng thêm sáng chói, lung linh để đến gần toàn thành, toàn bích. Khá hiểu !
Trong việc sửa tu thân, Kinh và Pháp là hai phương tiện giúp các con gìn tâm, giữ ý trong khi tiếp xúc với đời và trong đơn phòng. Đó là tập luyện thiểu tư, quả dục và cho lòng trống, dạ trong hầu đạt thanh tịnh nơi tâm nội. Đó là phương pháp tụ khí, ngưng thần để phục hồi Tiên Thiên Chánh Khí.
Trên con đường hướng thượng đó, các con dụng đại hùng hay quả cảm và dụng đại lực hay tận sức bình sanh của chính mình mới có thể kềm chế lục thất để khắc trị nhơn tâm và trưởng dưỡng thiên tâm.
KIỆT nghe !
THI :
Chứng chiếu duyên may, pháp nhị hình.
Trao về hào KIỆT luyện cho tinh.
Tịnh nhiều, động ít gom thần khí.
Chiếc bộ dọn đường bước yểu minh.
Vẽ đài Phật, vẽ hình cho đậm.
Tức tâm đều, sâu, chậm, nhẹ nhàng.
Ý hơi tương tiếp đoan trang,
Sái đơn đúng phép, tựu nhàn, tiêu dao.
Các con đồng nghe !
THI BÀI :
Ngộ duyên mau một Kinh một Pháp,
Thì các con khá rập in tuồng.
Chế kềm lục thất luôn luôn,
Thiểu tư, quả dục là khuôn đạo Trời.
Chớ dễ ngươi để lơi ý vọng !
Vọng danh mình và vọng lợi riêng.
Dục tư là cội não phiền,
Rẽ chia, tình tội triền miên lụy trần.
Trẻ khá hiểu cội căn của ý !
Thân dạt dời do ý chỉ huy.
Dầu thân tứ đại chậm rì,
Hễ đường ý vẽ, thân y theo hành.
Lại học dở, dở nhanh rất dễ.
Còn tập hay, hay dễ nào nhanh ?
Tập hay cho đến thuần thành,
Tập từ chỗ dở, phải đành bền gan.
Trong khó khăn cân phân minh việc,
Thường chỉ vì ý thiệt lơi làm.
Nhanh tay gò ngựa, kéo ngàm.
Còn phương viên thục, mã thuần nào hơn ?
Chẳng dối tu, chẳng sờn chí khí.
Một chí bền, một lực chí hùng.
Bền gan đi đến kỳ cùng,
Lực hùng vẹn giữ Điểm Trung nơi lòng.
Trung Điểm là quyết không cho ý,
Khiến khẩu thân luôn chỉ hại người.
Khẩu thân phải mãi lợi người,
Lợi người trên cả, giữa người có ta.
Nơi Trung Điểm hay là Chí Thiện,
Ý đằm rồi lại chuyển như như.
Chẳng riêng như chẳng tâm tư,
Mà Thân Khẩu đúng, Chơn Như rạng ngời.
Men Đào ngọt, trẻ vui ẩm tửu.
Gìn ý đằm mới được tựu Chơn.
Ước nguyền hướng thượng chớ sờn !
Bền gan chí vốn đường mòn tu tâm.
THI :
Tập tành Hiền Thánh học Ngu Đường, ĐẠO ĐỨC phẩm nên bởi luyện thường. KIM cổ Phật TIÊN đều hướng thượng,
Cho đời hiệp đạo đạt chơn thường.
Huynh MINH HUẤN chào mừng chung tất cả hiền đệ và hiền muội. Huynh miễn lễ, chư đệ muội khá tịnh tọa và nghiêm đàn nghe !
Tùy duyên, Huynh viếng thăm đàn lễ, nhắc và lược giải một vài ý đạo để chư đệ muội nhìn rõ và sâu sắc hơn phương cách Song Tu Đời Đạo.
Này chư đệ muội ! Là phận tu tâm,
đệ muội khá nghiệm về khái niệm Thân Tâm Ý và Thân Khẩu Ý cho thấu đáo thì mới
dễ dàng thấy được tư dục hằng thể hiện thế nào trong cuộc sống.
Đệ muội thử nghĩ :
Trước một cảnh vật mà có một người ứng phó thì nơi người đó rõ ràng đã có tâm động, ý lay, thân hành động và khẩu cũng có thể tham gia phát ngôn.
Có điều trong một giới hạn ngắn hay dài về không gian và thời gian nào đó, trong cảnh có ứng phó của người đó, chư đệ muội có thể nghiệm suy và minh định xem một niềm vui mừng nào, một mảnh lợi ích nào hay một chút danh nào đã xuất hiện chưa ? Và nếu đã có rồi thì một, hai, ba hay cả ba đã được qui về đâu ? Về ai ? Về bản ngã, cá nhân của người đó hay là về nhân chúng, tha nhân ?
Nói cách khác là trước một vật hay một sự việc, một thế nhân có thể kềm ý cho ý nghĩa thanh cao rực rỡ của chiều hướng thượng soi sáng việc làm của mình hay lại buông xuôi theo ý vọng vạy làm cho một màu tục lụy, nịch trầm bao phủ đời mình.
Vì vậy. chư đệ muội ! Khi nói Song Tu Đời Đạo hay sống đời học đạo thì đó chỉ là cưỡng ngôn, lạm từ để nói về sự gia công của một thế nhân lo kềm chế ý, răn đe lòng sao cho từ cuộc sống của mình toát lên một ánh thanh cao của chiều hướng thượng trên con đường Chí Thiện.
Cho nên chư đệ muội khá cố gắng thoát khỏi cái giới hạn của danh từ, cái gò bó Nhị Nguyên của cảnh vật thì mới có thể thấu đáo đâu hư, đâu thiệt trong cuộc sống.
Hãy nghe !
THI :
Cố tránh tục thì chẳng thật yên,
Quá mong thanh cũng vẫn vương phiền.
Đạo đời chung vẽ đường Trung Chánh,
Giải thoát thật là thoát Nhị Nguyên.
Vậy thì đời đạo hay đạo đời chỉ cốt là một thể trọn vẹn, lặng lẽ, im lìm, tàng ẩn trong cuộc sống. Chỉ khi nào, một người có phản ứng đối với ngoại cảnh quanh bên mình thì ở nơi người đó, từ cái thể trọn vẹn đó sẽ ứng xuất ra hai màu, màu đời pha đạo và màu đạo pha đời, y như hai nghi Âm Dương, hai lẽ Trược Thanh trong vòng Trời Đất. Khá nhớ là Dương chứa Âm, Âm bồng Dương. Còn từ Trược thì Thanh khinh phù và trong Thanh thì Trược sẽ trầm lắng.
Cho đến khi ở một thế nhân khéo tu nào đó, cái ý đã đằm rồi mà lại được hướng đến gần hay đến ngay Trung Điểm thì nơi Chơn Nhơn đó, cuộc sống là một hào quang thanh cao rực rỡ, chỉ toàn công chánh, nghiêm minh, rặc ròng thiên lý, làm toát lên được khí thế đại hùng, đại lực, đại từ bi của những Hiền, Thánh, Tiên, Phật ngàn xưa đó.
BÀI :
Thầy hằng dạy Song Tu Đời Đạo,
Nào phải đâu phân đạo rẽ đời !
Chớ vì vương tiếng vướng lời !
Mà minh định lẽ đạo đời khó thông.
Đạo đời ẩn tàng trong cuộc sống,
Cùng thế nhân thật giống dòng đời.
Sự này việc nọ luân vơi,
Rõ ràng bèo nước cứ trôi vô tình.
Mỗi thế nhân hành trình giữa cảnh,
Tự chính mình ứng cảnh bên ngoài.
Hằng thường tác động chẳng lơi,
Giữa trong thảm dạ và ngoài trần duyên.
Nhân sanh là nhân duyên bậc nhất,
Gây biến thiên cảnh vật tuồng đời.
Chớ vì ngoại cảnh đổi dời !
Lo kềm ý vạy, chiều mơi nghịch hành.
Tâm âm tạo nghi thanh nghi trược,
Cùng tâm âm tạo được đạo đời.
Chơn thì dụng đạo soi đời,
Đến khi Trung Chánh, đạo đời chẳng hai.
Thôi, đệ muội hãy bày ẩm tửu !
Gìn tâm âm lo liệu mà tu.
Nói rằng Đời Đạo Song Tu,
Đạo đời hiệp tạo trăng thu nơi lòng.