Chế phách phi tâm chế, câu hồn khởi ý câu

Chế phách phi tâm chế, câu hồn khởi ý câu.
(Chế phục hồn không dùng tâm, câu thúc hồn không cần dùng ý.)

[Dưỡng cái vô hình thì thức thần (thần trong ý thức) chết mà cốc thần sống, cốc thần sống nên tình quên mất, tình quên thì phách bị diệt! Phải dùng tay và tâm tiên thiên mới có thể ức chế nó, tâm không thể ức chế phách. Hình đã có thể quên thì thất khiếu đóng lại và nhất khiếu sáng rõ; nhất khiếu sáng nên tính hiện ra, tính hiện thì hồn tàng ẩn đi! Chỉ giữ ý này mới có thể câu thúc hồn, ý thông thường há có thể câu thúc hồn ư? ]

Duy lưu thần dữ khí, phiến hưởng kết huyền châu.
(Chỉ khi giữ lại thần và khí, trong phút chốc có thể kết thành huyền châu.)

[Hồn tàng nên thần được toàn vẹn, phách bị diệt nên khí đầy đủ. Thần khí giao cảm, tự nhiên ngưng kết. Huyền tượng trưng cho u huyền sâu kín, châu tượng trưng cho ánh sáng trong lành, nên viết là huyền châu.
Trên đây là chương mười bảy, nối tiếp ý chương trên, giảng rõ rằng dưỡng cái vô hình thì khí tự đủ và thần tự tàng ẩn an tĩnh. ]

Khẩu quyết vô đa tử, tu đan tại phiến thời.
(Khẩu quyết không nhiều lời, luyện đan chỉ trong phút chốc.)

[Khẩu quyết luyện đan này chính là hai câu “duy lưu thần dữ khí...” của chương trên, ý nghĩa của nó nằm ở ba chữ “không nhiều lời” và “trong phút chốc”. Nhưng thần khí làm thế nào cùng giữ lại, trong phút chốc làm sao ngưng kết, thì vốn có bí quyết đơn giản, chính là điều mà Thạch tử trong bài tựa đầu nói “không quá nửa câu”. Người học khi công phu thuần thục, từ định sinh ra tuệ, sẽ tự nhiên lĩnh ngộ, đoạt lấy thiên cơ, đạt đạo hoàn toàn, không uổng phí công phu. ]

Ôn ôn hành hỏa hậu, thập nguyệt sản anh nhi.
(Hỏa hậu giữ vừa vừa, mười tháng sinh ra anh nhi (đứa trẻ sơ sinh).)

[Trông hỏa hậu giữ lò thuốc ở mức từ từ, khi thần và tức đã an thì mặc theo tự nhiên. Khí đã thuần thục, niệm đã lặng, tự nhiên không có sai lầm. Dưỡng qua ba trăm ngày, tự nhiên linh động lên như đứa trẻ sơ sinh thoát khỏi thai mà sinh ra, thấy hình tượng của con rồng trên ruộng – đây là lời ví von.
Trên đây là chương mười tám, chương này nối tiếp ý hai chương trên, và mở đầu cho ý của sáu chương dưới. Hai chương trên nói về hái và giao kết, chương này chỉ ra hai chữ “khẩu quyết” và dạy cách dùng khẩu quyết, hỏa hậu phải giữ mức vừa vừa. Sáu chương dưới giảng về tắm gội và phân thai, ôn dưỡng, thành đan. ]

Phu phụ sơ hoan hợp, niên thâm ý chuyển nùng. Động phòng sinh thụy khí, vô nhật bất xuân phong.
(Vợ chồng ví với tâm và thân, động phòng ví với nhất khiếu, gió xuân ví với mức ôn ôn (vừa vừa ấm).

Ý nói thân tâm ban đầu nhờ tinh khí ngưng kết thành thần, đã cảm thấy sự hợp hoan không có ngăn cách; qua nung luyện, tắm gội, ngày này sang tháng khác, ý tứ hòa hợp dần chuyển sang nồng đượm. Lúc này luôn giao hội với nhau thì tự có chân khí xông hun để tắm gội. Khí này ấm áp và có cảm giác như ngồi trong làn gió xuân. Người đọc nên cẩn thận chớ dựa vào từ mà hại đến ý. Tử Hiền - Tiết tử có bài ca: “Chồng, người chồng chân thật; vợ, người vợ chân thật. Khi khảm nam giao cảm cùng ly nữ, trong hư không không chút bụi trần lộ ra trời đất.” Đây là sự hình dung cảnh tượng trong nhất khiếu phát ra ánh sáng, có thể thấy được khi còn sót chút trần ai sao?
Trên đây là chương mười chín, chương này nối tiếp ý chương trên, nói rằng khi nung luyện lâu dài sẽ tự có chân khí thiên nhiên để tắm gội, vẫn lấy ôn ôn (vừa vừa ấm) làm chuẩn, cũng tựa như không khác với công dụng của việc nung luyện. Đâu biết rằng đắc dược (được thuốc) và giao kết nằm trong đó, đầu tiên vận hỏa lên, tập trung điều khiển nó, gọi là nung luyện; sau đó chân khí luôn dâng lên, tràn khắp thân, lấy nó tưới nhuần ấm cơ thể, gọi là tắm gội. Cho nên nói nung luyện là đỉnh cao của hỏa hậu, nói tắm gội là sự  tự nhiên về hiệu lực của thuốc. Bạch tử nói: “Lấy “tác (làm)” và “chỉ (ngừng)” làm sự tiến thoái – nung luyện là tác, mộc dục là chỉ. Tác là tiến hỏa, dùng sự vô dụng trong dụng; chỉ là thoái hỏa, theo như trước thi triển công lực trong cái công lực không có công lực. Những điều này không thể không biết. ]

Sậu vũ chỉ hồ điệp, kim lô ngọc mẫu đan. Tam canh hồng nhật hách, lục nguyệt tố sương hàn.
(Đột nhiên mưa đổ trên bướm giấy, hoa mẫu đơn ngọc rơi vào lò vàng. Canh ba mặt trời hồng cháy đỏ, tháng sáu đổ sương lạnh.)

[Câu đầu ví với sự hiểm nghèo, câu hai ví với sự nguy khốn, canh ba ví với cái lạnh, tháng sáu ví với cái nóng; mặt trời hồng là để đẩy lui cái lạnh, đổ sương là để trừ cái nóng. Đan đạo cho rằng khi cường tráng thì luôn hiếu động và không an tĩnh, mà hỏa hậu đang ở cảnh giới vô vi. Thần nếu ngưng được sẽ tĩnh định, trong niệm không có niệm, công phu thuần túy vốn không có chút lo nghĩ. Nếu thường ngày luyện kỷ chưa thuần thục, đến lúc này lại thi hành vô vi thì ắt làm động niệm, khiến thần rong chạy ra ngoài, mối nguy hiểm của nó giống như bươm bướm giấy găp cơn mưa đột ngột, trong thân lạnh lẽo như đang canh ba ban đêm, cần dùng hơi ấm của mặt trời hồng hông sấy nó, có vậy thần mới quay về thiên cốc, lập tức hết lạnh và ấm lên. Nếu ý niệm xao động thì thần sẽ nôn nóng, mối nguy khốn của nó như đóa mẫu đơn bằng ngọc rơi vào lò vàng, tim và đầu nóng như tháng sáu mùa hè, cần có cái lạnh của sương để tiêu trừ nó, như vậy khí quay trở về Giáng cung, tự nhiên không còn nóng nảy mà trở nên nhuần thấm. Tóm lại phải giữ cho trong niệm không có niệm, động quá chuyển sang tĩnh, tiêu chuẩn là luôn giữ sự ấm áp và nhuần thấm. Nhưng vào canh ba sao có thể có mặt trời, vào tháng sáu sao có được sương lạnh, lúc này cách để ứng cứu là như thế nào mới tốt đẹp được? Há biết rằng canh ba là đang giờ tý, tháng sáu thuộc ngày ngọ. Nói đến lạnh thì dùng canh ba mà ví, bảo nóng thì dùng tháng sáu mà ám chỉ, rõ ràng ví sự vọng động nên mới đưa ra những lời nguy hiểm để cảnh giới, ngầm chỉ ra rằng thừa cơ theo thời có thể có cơ hội tốt để giải quyết khó khăn. Người có thể ngộ ra nơi của nguyên thai này, thì có thể ra tay hóa giải. Nếu chưa tự tin lắm, xin đọc chương sau.
Trên đây là chương hai mươi, nối tiếp ý chương trên, nói rằng khi ngưng hỏa để tắm gội, hoàn toàn dựa vào định thần điều khí, mới có thể phát triển lớn mạnh để phân thai. Lỡ mà niệm xáo động, khí thất tán, thì rất nguy hiểm, nên Bạch tử nói: “Đề phòng sự ngắt đoạn và không chuyên chú”, đây là điều dễ hiểu. Nếu bình thường dày công luyện kỷ ắt không mắc vào mối nguy nan này. Người có chí luyện đan, đầu tiên có thể không tự cảnh giác sao! ]

Hải để phi kim hỏa, sơn điên vận thổ tuyền. Phiến thời giao cấu tựu, ngọc đỉnh khởi thanh yên.
(Tư đáy biển bay lên ngọn lửa kim, trên đỉnh núi tuôn trào dòng suối thổ.

Trong phút chốc việc giao cấu thành tựu, đỉnh ngọc bốc lên làn khói xanh.)

[Đáy biển là để nói Vĩ lư, đỉnh núi ví với Đỉnh tế, kim hoả là mệnh hỏa (hỏa của mệnh sống). Giao cấu thành tựu để ví trong cái sâu kín điều hòa được sự bình ổn, đỉnh ngọc ví với lỗ nhất khiếu sâu kín này, bay lên làn khói xanh là hình tượng của sự ôn hòa và thoát chuyển đổi. Ở đây nối tiếp ý chương trên, về việc canh ba sao lại có mặt trời? Cần chú ý hoàn toàn vào chính lệnh. Từ đáy biển của ta, tức Vĩ lư bay lên ngọn lửa của kim càn thuần dương trong khảm, bay lên đến đỉnh và trở về càn, nó đỏ rực như mặt trời và lan tỏa hơi ấm khắp thân. Tháng sáu sao có được sương? Do từ trên đỉnh núi của ta tuôn xuống dòng suối của khôn thổ thuần âm trong ly, chảy về biển và quay trở lại khôn, có cái lạnh của sương nên làm toàn thân tươi mát. Tuy chia ra làm hai câu, kỳ thực chỉ có một ý; từ dưới đi lên để quay trở lại càn gọi là ngọn lửa kim bay lên, từ trên chảy xuống để trở về khôn gọi là tuôn suối thổ. Thuyết tiến hỏa thoái phù mà các sách đan khác giảng cũng là điều này. Cứ vậy xoay vòng, chỉ cần trong khoảnh khắc, tự nhiên toàn thân ấm áp, giống như đỉnh đã bốc khói, không cần cầu đến khí. Nhưng khiếu này không tự nhiên xuất hiện mà là bất đắc dĩ dùng đến nó để bổ cứu kịp thời. Nếu không phải để cấp cứu thì bảo vật không nên đùa bỡn. Trương tử cảnh giới điều này rất cặn kẽ. Tóm lại, học bảo toàn tính mệnh của ta, hoàn toàn nằm ở chỗ giữ ý như giữ thành, do đó Văn vương diễn giải về hào lục tam của quẻ Khảm, nói rằng: “Hàm chương khả trinh (Hàm chứa đức tốt mà có thể giữ vững)”.
Trên đây là chương hai mươi mốt, nối tiếp ý chương trên, nêu rõ cách để ứng cứu. Ngu muội bàn rằng: chương thứ mười chín nói về cách đúng để tắm gội tự nhiên; hai chương này dạy cách ứng cứu khi có sai lầm, là cách Bạch tử dùng để vận dụng việc trừu thiêm (thêm bớt). ]

Đạc phá huyền quan khiếu, xung khai hỗn độn quan.
(Đục phá lỗ huyền quan, mở toang cửa hỗn độn.)

[Lỗ huyền quan là chỉ hình ảnh u huyền của nhất khổng. đục phá là làm cho thất khiếu quay về gốc của chúng là nhất khiếu, đến lúc này hốt nhiên rộng mở, lúc này anh sẽ nhìn thấy cái chân nhất vốn có – có nguồn gốc trước vạn vật, xuyên suốt trong ngoài sắc tướng, chí hư chí vô, vô cùng huyền vô cùng diệu, cảm thấy mờ mờ mịt mịt không thước tấc nào có thể đo lường được, mênh mông bát ngát không bờ bến nào có thể giới hạn được; nó lớn đến mức không vật gì nằm ngoài, và nhỏ đến mức không vật gì nằm trong nó, lớn đến mức bao trùm khắp trời đất, mà lại nhỏ bé đến độ có thể chui vào cọng cỏ, cái lông; trên không có màu sắc, dưới không thấy sâu thẳm, một vật này đã thành hình thì nghìn năm hiển lộ - đây chính là lúc thống nhất thất khiếu thành một, huyền quan mở toang.
Cửa hỗn độn, ý nói lúc này khí đã thịnh, dương thần riêng ở trong Thiên cốc, được khí dâng tới cũng trở nên đờ đẫn giống như một lỗ hỗn độn, đóng cục như một quả trứng. Mở toang tức  là khi đến mức này, hiệu lực của thuốc đã đủ, lực của hỏa đã mạnh, rất lớn rất cứng, không dễ dàng tiềm ẩn, cốc thần của ta đã tự thấy được huyền quan, lỗ chân khiếu bôcng nhiên tự mở toang; theo đó mà thông được lý trong Hoàng. Thể ở vào vị trí ngay chính, khí quán thông trời đất, thần đã thống lĩnh pháp thân; kế đến cảm thấy chớp loé điện xoẹt, chấn động trời đất; tiếp theo trăm mạch chạy rần rật, tam quan thông thấu, toàn thân thuần dương, thân nóng như lửa – Đây là cảnh tượng chân thật, không phải thí dụ.
Câu trên là tình huống khổ sở để xóa bỏ quá khứ, gội sạch suy tư, làm sạch tâm, vật lộn với một ngày tháng sáu, đến đây lấy một mà trở về gốc. Câu dưới chỉ thẳng Đại đạo kim đan, lấy một để thống suất bảy, nhờ trực dưỡng (dưỡng chân chính đúng đắn) mà không bị hại – Lão tử gọi là quy báo (trở về), tĩnh tĩnh, phục mệnh – Lúc này nguyên mệnh mới hoàn toàn hồi phục! Tóm lại, thân tâm hậu thiên phải được luyện bằng công phu từ động về  tĩnh, nhằm trở về cái tiên thiên của ta; và quay trở về tiên thiên đó là tính mệnh. Công phu tự nhiên cực tĩnh thí sinh ra động, có hình ảnh như có khi nhảy nhót có khi ẩn dưới khe sâu. Nếu không phải là người biết sớm tối lập mệnh nơi sâu kín thì sao đến được bước này.

Đãn tri hanh thủy hỏa, nhất nhậm hổ long bàn.
(Đã biết nung thủy hỏa, cứ mặc rồng hổ cuộn tròn.)

[“Hanh thủy hỏa” chính là ôn dưỡng, sẽ nói ở chương sau. Hổ vốn ví với thân, rồng vốn để chỉ tâm, nay ví chúng với thần. Đến bậc này, lỗ huyền quan đã bị phá ra, không cần ẩn trong sắc thân để ngầm tu luyện, nhưng nguyên tính vẫn chưa trở về, đúng như hình tượng của hào cửu tứ của quẻ ngoài là Càn trong quẻ Càn. Khổng tử nói “Thượng hạ vô thường, tiến thoái vô hằng (lên xuống thất thường, tiến thoái không bền)”, ý nói lên không thể đến trời ba, xuống không thể đến đất hai, tiến chưa thể hợp với đạo, lui chưa đủ bảo vệ thân, đúng là lúc ngưng nhưng chưa định được, chỉ cóthể cột bị giữ bên trong, ôn dưỡng công phu của bậc thánh. Như quẻ Mông, suối bắt đầu chảy ra dưới chân núi, nếu người quân tử luyện hạnh dưỡng đức cho đến ổn định thì giống như nước; Như quẻ Bí, ngọn lửa mới phát lên dưới núi, quân tử hiểu rõ về chính sách mà không dám phá bỏ ngục tù để dưỡng trí tuệ thì là hỏa. Như vậy gọi là nung nấu, tất làm việc có kết thúc mà không dám nói thành quả. Cho nên khẩu quyết về viên mãn “Thiên tiên tâm truyền” mà tôi nói có viết: “Giữ quả trứng tam tài, Hoàng là ruộng phúc. Ta ở vào trong đó, hỗn độn hòa đất trời.”, là vẫn lấy thần khí hòa quyện va ngưng trong cái một chân thật không có hai, tính mệnh bọc cất ở lỗ hư vô tự nhiên, mặc cho rồng hổ cuộn tròn, đợi khi mây gió hội ngộ mới mong thành đan! Lâm cẩn thận chép, thầy tôi từng nói với mọi người: “Muốn biết được chỗ cốt yếu của kim đan, xin hãy thể nghiệm về càn khôn trong “Chu dịch”, ắt hiểu hết về đạo.” Lâm thường đọc hào thượng lục của quẻ Khôn và hào thượng cửu của quẻ Càn mà ngộ ra cách hái lấy; đọc hào sơ cửu của quẻ Càn rồi tham khảo hào sơ lục của quẻ Khôn mà biết cách ngưng kết; đọc hào cửu nhị và tham khảo hào lục nhị mà biết cách nung luyện; đọc hào cửu tam và tham khảo hào lục tam mà biết cách tắm gội; đọc hào cửu tứ rồi tham khảo hào lục tứ mà biết phân thai thì phải ôn dưỡng; đọc hào lục ngũ và tham khảo hào cửu ngũ mà biết cách thành đan; đọc lại hào thượng lục, thượng cửu và tham khảo ‘dụng cửu’, ‘dụng lục’ mà ngộ ra con đường thoát khỏi sinh tử. Do đó “Hệ từ” của Chu công làm người ta ngưỡng mộ sự chiêm đoán. Khổng tử đã kính cẩn viết “Triện”, “Tượng”, “Văn ngôn” để nói rõ sự vi diệu của nó. Thật là có thể nhìn hình tượng mà biết sự biến hóa, xem lời lẽ biết bói toán! Ý nghĩa của việc đọc “Dịch” là như vậy.
Trên đây là chương hai mươi hai, chương này nối tiếp ý chương trên, nói rằng tắm gội đã đủ thì tự nhiên biết cách phân thai, tức là điều Bạch tử nói: “Lấy việc dời thần làm sự đổi đỉnh”. Thực ra, phân (chia) không thể phân, dời không thể dời, chẳng qua là kiến thức rộng mở nên trời và người không còn khoảng cách, thần khí đầy đủ thì vật và ta không gián cách, nên phải ôn dưỡng thuần thục mới thấy đan thành. Nhưng công phu ôn dưỡng khó ở chỗ báo kết quả khi đã xong. Điều này phụ thuộc vào việc người ta bình thường có thật sự thận trọng và kín đáo hay không mà chứng được kết quả nhanh hay chậm. ]

Bà Kiệt thủy trong hỏa, Côn Luân sơn thượng ba. Thùy năng tri vận dụng, đại ý yêu Hoàng Bà.
(Lửa trong nước Bà Kiệt, sóng trên núi Côn Luân. Ai có thể biết vận dụng, đại ý cần đến Hoàng Bà.)

[“Trong nước Bà Kiệt” chỉ đáy biển, trên núi Côn Luân chỉ đỉnh núi – Hai câu này giống hai câu đầu chương hai mươi mốt. Nhưng ở trên lấy hai chữ “phi” và “vận” là cách bổ cứu trong thân – theo đó, đến lúc này thần đã chính được vị trí, đã ngưng được mệnh, khí đã thấu triệt trong ngoài, mới biết thiên hạ có nước biển Bà Kiệt, tuệ mệnh của ta tàng ẩn trong đó; có đỉnh núi Côn Luân, định tính của ta cư ngụ nơi đó. Không có đông tây xa gần, cũng không có thủy hỏa, thăng giáng, để mặc chính khí hạo nhiên tự tuần hoàn, vạn vật đều được nuôi dưỡng, đó là công phu ôn dưỡng của bậc thánh. Nhưng thời điểm mấu chốt để vận dụng của chúng không giống nhau, chỉ có điểm cốt yếu là đôn đốc lòng tin, cẩn thận giữ gìn, chớ mặc sức bay nhảy, nôn nóng,làm cho thể luôn được thư thái, an hòa, thì tự nhiên có  thể nhìn thấy sự trở lại của nguyên tính. Tử Hiền - Tiết tử có lời ca rằng: “Thủy là chân thủy, hỏa là chân hỏa, theo trước kịp thời vận khắp chu thiên, điều hòa, luyện đến tận cùng báu vật trường sinh.” Dựa vào đây có thể biết được sự vận dụng!
Trên đây là chương hai mươi ba, nối tiếp ý chương trên, chỉ ra cách ôn dưỡng, giữ cho đầy. ]

Dược thủ tiên thiên khí, hỏa tầm thái ất tinh. Năng tri dược thủ hoả, định lý kiến đan thành.
(Thuốc lấy khí tiên thiên, lửa tìm tinh thái ất. Có thể biết dược lấy hỏa, thì trong định tĩnh thấy đan đã thành.)

[Thuốc chỉ khí của năm cái: tinh, thần, hồn, phách, ý; năm khí này hợp lại quay về nguyên thủy, kết thành nguyên thần dày đặc trong Thái tố. Trong thể có khí thuần dương, đây là khí tiên thiên. Hỏa chỉ tinh hoa (hoa) của ba thứ tinh, khí, thần; tinh hoa của ba thư này chuyển hóa lẫn nhau và tụ ở đỉnh, bên trong ngưng tụ khí Thái ất hàm chân, trong tâm có tinh thuần âm, là tinh của Thái ất.
Đồng môn của tôi nói: “Theo “Xuân thu hợp thành đồ”, năm sao Bắc cực nằm ở cung Tử vi, căn nhà Tử vi của Thiên đế là tinh túy trong Thái ất, vị trí của nó gần Thiên ất và hơi chếch về phía nam, đúng vị trí trên đầu con người, nên có thể cảm ứng và truyền thẳng vào nhân tâm.” Lý này thật sự có chứng cứ, đó là khi con người còn mới sơ sinh, do âm dương kết với Thái nguyên tạo thành. Ngu muội xin đối chiếu điều này với chương mười bảy, gọi cái có được ở đây là tủy của trời đất. Trời đất chính là Thái cực, thì gốc của Thái ất nằm ở Thái cực, chính là điều Hạc Cù tử nói: “Mờ mờ mịt mịt, Thái cực chảy ra tinh.” Nhưng Thái cực không thể thấy, nên lấy Thái cực của trời để nói nó. Đây là tinh Thái ất ở cung Tử vi, tức tinh chảy ra từ Thái cực! Cái gọi là tủy của trời đất cũng vậy. Nhưng ở đây không cần bàn. Tóm lại, người và trời vốn có khí thông suốt nhau.
Tu đến bậc này thường để chân khí quay về nguyên thủy của năm yếu tố (tinh, thần, hồn, phách và ý). Nguyên thần do (tinh) hoa của tinh khí thần ngưng thành tụ trên đỉnh được kéo dài mãi, tâm tàn lụi chỉ còn mờ mờ, tự nhiên nguyên tính của ta sẽ trở lại. Tức tìm lấy tinh của Thái cực làm hỏa, hái khí tiên thiên làm thuốc, lấy hỏa luyện thuốc. Trong định tĩnh đan sẽ thành. Bạch tử nói: “Có thể theo vô tâm mà gặp gỡ, không thể lấy hữu tâm mà cầu được.” Cho nên Tử Hiền - Tiết tử có lời ca: “Thuốc không phải là vật, lửa không phải lửa thường, rõ ràng chỉ là nhất điểm dương, luyện thành tuổi thọ vạn kiếp. “ Ta đang trong lúc tịch tĩnh, không hình không ảnh, phải cẩn thận giữ lấy, tự nhiên sẽ có lửa để luyện thành thần, chính là trong định tĩnh thấy đan đã thành. Nếu lấy trí để cầu thì như Trang tử nói: “Hoàng đế bỏ mất huyền châu”, dùng trí cầu nó thì không được!
Trên đây là chương hai mươi bốn, chương này nối tiếp ý của chương hai mươi ba, nói rõ việc tự hái lấy để đạt đến thành đan, không đi ra ngoài đạo lý giản dị của trời đất, là cách dễ hiểu có thể làm được. Khi có được chính niệm, thanh tĩnh tự nhiên, thuần nhất không là hai, dùng công phu ba trăm ngày, sau đó sẽ tiêu dao ngoài tạo vật, rong ruổi khắp nhân gian, đến đi không có trở ngại, hợp với đạo tự nhiên!
Ngu muội bàn rằng: Từ chương đầu đến chương hai mươi bốn này, cái gọi là đạo luyện đan đã hoàn bị. Riêng về điểm hóa, hái lấy, giao kết, nung luyện, tắm gội, và phân thai, ôn dưỡng, không thể không dùng ví dụ để nói, cũng không thể không phân tách ra để hiểu rõ. Thật sự lo người đời sau chấp vào lời văn và câu nệ ở hình tượng, cho rằng đạo này hữu hình hữu vi mà không thể đốn ngộ được; hoặc đã ngộ được ý nghĩa xác thực của câu từ, lại e cho rằng dùng theo cả hai nghĩa, nên ý vướng vào nỗi phiền toái của việc đến đi, lên xuống mà không biết chúng nhất quán với nhau; hoặc đã hiểu sự nhất quán này còn lo sau khi luyện đến cốc thần còn giữ ý niệm về trong thân ngoài thân mà không thể ngộ đạo. Cái nguyên thể chân thật và sắc pháp là nhất thân, là một, vốn tự thấu triệt trong ngoài. Do đó, trong phần dưới đây lại nói rõ về hai mươi chương này, để làm rõ yếu chỉ của chúng. Văn tuy ngắn gọn, có câu mượn vật làm thí dụ, nhưng luôn gạt bỏ những nghi ngờ, từng lời đều giải thích chân chính rõ ràng, mang dư âm của lời ca thán, ý tại ngôn ngoại, rất độc đáo, nên tìm hiểu kỹ. ]

Trở lại Mục Lục