Xà phách cầm long tủy, quy hồn chế hổ tinh. (Phách rắn bắt tủy rồng, hồn rùa nắm tinh hổ.) [Rồng để ví với tình, tình mỗi khi cảm nhận được sự lương thiện, dịu dàng thì sinh ra vui vẻ. Đây là việc làm của phách, nên nói là phách rắn. Tủy rồng, ví với âm tinh trong tim. Rùa ví với tính, tính mỗi khi gặp chấn động đều sinh phẫn nộ, đây là hành vi của của hồn nên gọi là hồn rùa. Tinh hổ ví với dương khí trong thân. Ở đây nói theo ý chương trên, chính lệnh của ta đã rõ ràng thì tình đã quên mà quay về lúc ban đầu của tính, do đó cái tâm điên cuồng như rồng đã bị nắm bắt, tinh đã không dao động thì tính sẽ định, từ đó cắt bỏ gốc của tình, cho nên thân hung dữ như hổ bị chế phục và khí không còn tù đọng. Hoa trì thần thủy nội, nhất đoà ngọc chi sinh. [Trương tử nói: “Ngờ vào diên mà biết tới hống gọi là Hoa trì, lấy hống cho vào diên gọi là thần thủy.” Ngu muội làm rõ ý của Trương tử như sau: Diên là thân, ví nó như cái ao, do gặp được hống nên khí hoá thành hoa (tinh hoa) nên gọi là Hoa trì; hống chỉ tâm, ví nó là nước, đưa nó vào diên thì tinh hóa thành thần nên gọi là thần thủy. Hống và diên hoà vào nhau, ví như thần thủy đổ vào ao Hoa trì, thực ra chỉ là thần quay về, khí trong thân tự trở lại mà thôi! Diên hống đã ngưng kết thì tự nhiên quên tình và định được tính, thần nhập vào khí như nước chảy vào ao. Có một người chủ luôn tỉnh táo, giống như hoa đã nở thành đóa, hớn hở khoe sắc, lại như nước ngọc đã ngưng kết thành cao, kết dính chặt chẽ - đây chỉ là hình ảnh tỷ dụ. Bạch tuyết phi quỳnh uyển, hoàng nha phát ngọc viên. Tuyết trắng – thân thuộc khảm, nhất dương trong khảm là càn kim nên có màu trắng; diên trong thân sinh ra do kim khí tràn trề nên diên hống giao nhau hóa thành thần thủy, trong trẻo tĩnh lặng, nên ví với tuyết. Vườn châu ví với thân. Đãn năng tri yển nguyệt, hà xứ luyện hồng diên. Như yển nguyệt vốn là biến tướng của lỗ huyền. Khi trong thân ta chưa có thuốc, thanh tịnh lắng giữ bên trong, thất khiếu đều quay về nhất khiếu. Bên trong nhất khiếu trống rỗng mà linh ứng, tròn trịa như quả trứng, nên cái tĩnh của nó cũng phù hợp hoàn cảnh; khi thuốc sinh ra, chính lệnh của ta đã được giữ vững, lỗ nhất khiếu này liền ngữa lên trời như hình cái chén để đón lấy thuốc. Cho nên nó sẽ động mà cũng sẽ sáng tỏ. Lúc này nếu khách quan mà nhìn, nó giống như vầng trăng lưỡi liềm. Khi đã được thuốc thì nó khép lại và tối như quả trứng để giữ thuốc. Ý niệm động rồi lại tĩnh. Lỗ huyền cũng sẽ mở rồi khép lại. Nếu tình và tâm xao động nhất khiếu sẽ mở ra thành bảy và thuốc thoát ra ngoài. Cho nên khi có thể được như yển nguyệt thì hái lấy thuốc. Nhưng cũng có thể nói ý của câu này là, có lúc không trông đợi như vậy mà được như vậy, ban đầu không có hình dạng nhưng có thể nhìn thấy. Về hồng diên, Trương tử nói: “Chân diên sinh ở khảm, tác dụng của nó lại ở cung ly”, từ đen biến thành đỏ là vậy, nhưng lúc ban đầu cũng không có sắc tướng. Luyện ở nơi nào, vì thần vốn không có hình thể nên răn người chớ chấp vào tướng khi hành động. Mạnh tử bảo: “Muốn nuôi dưỡng khí hạo thiên phải chăm lo tích lũy điều nghĩa, đừng trong chờ có kết quả ngay” là vì vậy. Dược tài khai hỗn độn, hỏa hậu luyện hồng mông. [Thuốc là tên gọi khi hái lấy; hỏa hậu là tên gọi lúc nung luyện, đều để chỉ tinh và khí lúc này. “Khai hỗn độn, luyện hồng mông” là nói khi tinh, khí này vô cùng thanh tĩnh, thất khiếu mới quy về thành nhất khiếu, như sự mờ mịt trong cõi hỗn độn, tự nhiên mở ra; tức lấy cái ý thanh tịnh, không phân biệt trong ngoài, giống như còn ờ thuở mơ hồ không có hình tượng, mà tự nhiên luyện chung tất cả tạo thành công phu. Nói thuốc đi ra từ chỗ hỗn độn, hỏa chính là luyện như mơ hồ, để làm rõ nghĩa của chính lệnh và yển nguyệt ở chương trên, dạy người chỉ có thể dùng vô tâm mà luyện, không thể lao khổ tâm để tu rèn. ] Thập nguyệt khai tiên hóa, phương tri cửu chuyển công. [Hóa là điều Bạch tử nói: “Đánh vỡ hư không để thành tựu”. Tức là cái mà đoạn dưới gọi là “thoát khỏi thai hóa thành thần.” Cửu chuyển tức là cửu hoàn. Cửu (chín) là số tròn của kim, chỉ dương khí trong thân trở về, không phải là chín lần trở về. Nói thuốc là từ trong vô sinh ra hữu, tức phải hỗn độn, mơ hồ như thái cực, không thể lường trước hình tượng của khí như thế nào, và đến ba trăm ngày thì thai thành thục, mới biết khi ta bắt đầu kết đan đã luyện công phu hái lấy dương khí tiên thiên trong thân. Long chính tàng châu xứ, kê phương bão noãn thời. thùy tri diên hống hợp, chính khả ẩm Đaokhuê. [Tàng châu ấp trứng để chỉ chỗ diệu của nhất khiếu. Sách “Nội cảnh” viết: “Người đã biết quay cả về nhất khiếu, tức biết cách náu vào nơi sâu kín. Chỉ là giống như rồng dưỡng châu, gà ấp trứng, thần chuyên chú không xao động mà thôi.” Ai có thể hiểu được ý nghĩa thực sự của chữ diệu, thầy ta Thái hư ông chú “Cửu thiên tâm ấn sám văn” viết: “Không có ta cũng không có người, chớ nên xưng hô để phải miễn cưỡng gọi là ai”. Chữ ai (thùy) trong sách này gặp tới mười một lần, luôn có thể dựa vào nó lĩnh hội ý nghĩa. “Thùy tri diên hống hợp (ai biết diên hống đã hòa hợp)” chỉ sự tàng thần ở nơi sâu kín, giữ cho thần thanh tĩnh, không phân biệt ai là chủ ai là khách, ai là ta ai là người, cũng không quan tâm diên hống có hòa hợp hay không, đó mới chính là sự hòa hợp thật sự kỳ diệu, không gì gián cách. Đao khuê chỉ kỷ thổ và mậu thổ, số của chúng đều thuộc năm, ban đầu vị trí của chúng đều ở giữa. Sau khi con người chào đời, nơi ở của chúng chia thành khảm và ly – dương trong khảm là tinh anh của mậu thổ, âm trong ly là tinh hoa của kỷ thổ. Người xưa gọi là khảm ly để chỉ Đao khuê. Các nhà nho xưa gọi chúng là “tinh hoa của âm dương và ngũ hành” để nói rõ khảm thuộc mậu, ly thuộc kỷ, một khi được gặp nhau sẽ vĩnh viễn không có gì gián cách được chúng, chúng giao hợp ở giữa nên gọi đó là Đao khuê. Dạy người chỉ dùng ý niệm sơ khai làm chính lệnh, tức điều mà các bậc tiên hiền gọi là cái chân thực của vô cực, để tinh hoa của âm dương ngũ hành khéo kết hợp và ngưng lại. “Thường thanh tĩnh kinh” của Lão tử viết: “Vô hình, vô tình, vô danh, miễn cưỡng gọi đó là đạo.”, tức là ý nghĩa thực sự của chữ “ai” mà thầy ta đã chú – đúng lúc thì hội với thái nguyên, lý lẽ này có thể dùng được. Mộc dục tư thần thủy, xúy hư lại tốn phong. [Đến lúc này, nếu tàng ẩn ý niệm không kín đáo thì hỏa tản đi, trong thân cảm thấy lạnh lẽo. Chỉ khi tự làm sáng chính lệnh thì thần trở về trong thân và khí tự quay lại, tự nhiên sẽ có chân khí hun hấp toàn thân để tắm gội, lúc này có sự ấm áp. Viết “nhờ vào thần thủy” là do bản chất của ta đã hoà thành tiên thiên, ở chính vị phía bắc đã không còn là tượng khảm hậu thiên, nên gọi cái khí giúp tắm gội một cách tự nhiên này là thần thủy. Còn nếu ý niệm khởi lên quấy nhiễu, hỏa sẽ rối loạn, trong thân cảm thấy nóng bức, nhưng lập tức quay về chính niệm để trấn áp vọng tưởng nôn nóng, thì bên trong sẽ thanh tịnh, tự có chân tức (hơi thở chân thật) thở ra mãi, toàn thân mát lạnh, lúc này thân tự điều hoà. “Dựa vào gió tốn”, tức do khôn thân của ta đã quay trở lại tiên thiên thì cội nguồn ở tây nam là tốn cung, có dạng chiếc mũi, nên gọi hơi thở tự nhiên thổi ra là gió tốn. Đây chính là diệu pháp điều hoà nóng lạnh, là thần quay về và khí tự trở lại mà không cần hít khí từ ngoài vào. Bạch tử cho rằng nắm giữ và chiếu cố là nung hỏa, chân khí hun hấp là tắm gội, lấy việc lắng ý niệm xuống để dưỡng hỏa, cách của ông ta thật tinh tế! ] Anh nhi vô nhất sự, độc xử Thái vi cung. [Anh nhi là chỉ cái thần do âm tinh trong tâm ta và dương khí đã ngưng lại mà thành, tức vẫn còn ở cung gốc là Thiên cốc, nên gọi nó là Cốc thần (thần hang). Những bậc tiền nhân ví nó như đứa trẻ sơ sinh (anh nhi), cho rằng lúc này lực của thần còn yếu, còn cần ta thường xuyên dùng chính niệm của mình nắm giữ và chiếu cố, nên mới ví von như vậy. Cung Thái vi, trên trời nó là đàn Thái vi, có thượng đế cư ngụ trong đó, trong con người nó là cung giữa trong cửu cung trên đầu, tức cung Nê hoàn – nơi cốc thần dưỡng chân. Thầy ta thường nói: “Anh nhi tức là chân nhân, phải ở nơi trống rỗng vô dụng mà nhàn dật, tự dưỡng ra nguyên thần.” Ý nghĩa này thật tinh tế! Đó chính là ánh sáng của tự tính. Cho rằng, chỉ trong thân người mới dưỡng chân tính được, đến khi thân chân thực lộ ra, thì đó chính là chân nhân diệu kỳ.
|