Bát Quái Đồ Thiên, Dậu Thời 29.10.Bính Tuất - 1946.
THI
Giòng nước long lanh cuộn chảy trào,
Quốc gia nghiên ngữa phải làm sao;
Thượng lưu tìm hiểu giùm chăng đó,
Để mãi lòng đây vdạ đớn đau.
Tiểu Thánh Bạch Hạt Đồng Tử chào Thiên Ân mạng sắc , mầng cả phận sự Hiệp Thiên Đài. Chính giờ nay lịnh đàn kỳ Sóc Vọng, tức là hôm nay. Vậy nơi đàn, Tồn sắp tuần canh trật tự rồi tiếp lịnh hầu đàn. Có Chí Tôn ngự giá lâm trần. Huệ Thiện yếu thần đổi Minh Chơn phò cơ và sau nữa phân ban thứ tự hầu tiếp giá. Tiểu Thánh xuất cơ.
(Tiếp Điển]
Thầy các con,
THI
NGỌC còn đợi trẻ, trẻ nơi đâu, HOÀNG hởi các con gỡ mối sầu; THƯỢNG hạ phân minh gìn mối Đạo, ĐẾ mầu học lấy kệ vài câu. GIÁO nhìn con khổ càng chua xót, ĐẠO đức con tầm bởi tại đâu! HOÀN chỉnh lập thành ngôi Nam Việt, CẦU Thầy giáng chỉ rõ từ câu.
Thầy mầng con Thiên Mạng, cả thảy con phận sự độ đời. Từ lâu Thầy chẳng giáng bút để lời cùng con, thì hôm nay Thầy nhìn con thấy các con phải lao đao lận đận tranh dành cấu xé lẫn nhau, Lẽ Thầy giáng đây song Thầy chẳng bắt buộc con phải kỉnh lễ thì mỗi con đồng kỉnh Thầy tam bái, gọi phụ tử chi tình rồi đồng đẳng toạ thiền để kề tai Thầy thỏ thẻ vài câu. (1]
Nầy các con ôi ! Thâỳ chẳng binh con nào, chẳng bỏ con nào, song vì Toà Tam Giáo định phân, thì Thầy chẳng biết làm sao để Thầy binh vực lại đám con Nam Việt chịu tai sầu. Thầy chỉ có đau lòng xót dạ mỗi con đau đớn khổ sầu bao nhiêu thì tất gan vàng Thầy tợ nát tan chừng nấy.
Thầy biết làm sao giờ con ! Một gia đình, con đứa nghịch đầu, đứa dại khờ, đứa lấn quyền đè ép đứa u ơ, Thầy là Đấng Chúa Tể Càn Khônchỉ phán ra cùng , còn Luật Tam Giáo đó, Thầy chỉ xin giảm bớtnạn con, mười phần hết tám còn hai.
Hôm nay ngày tháng đã qua tợ dường thoi đưa chớp nhán; rước mắt con không thể đình đải, chỉ thoáng qua rồi mất; con phải còn chịu vào cảnh khổ sầu, chẳng bao x đâu con. Tầy vẫn biết rằng mỗi con trách móc Thầy lần lựa. Thầy bao giờ nhìn đến các con phải dường thế. Thầy chỉ lần lựa cho mỗi con khỏi phải mõi lòng thối bước. Đó là Thầy quá yêu quá mến con không nở để cho con nào phải xa cùng Thầy. Nhưng hiện giờ Thầy giáng để phân trần mỗi con là vì Thầy không muốn mỗi con nào trách móc trước mặt Thầy đang hiện tại, mỗi con đang cầu khẩn. Chú Thầy là Thiên Địa vô tư, song ở phương nhưng mỗi connếu biết kêu than mỗi lần thì động thấu vào quả tim cuỉa Thầy, làm cho quả tim của Già đâytan nát, vì đứa ngỗ nghịch cùng Thầy, các con,. Hàm gia đình mỗi con tự hiểu, nếu đành rằng Một đứa con nơi thế gian của mối nghịch ngỗ thì con có tin mến nữa chăng ! Chính Thầy đây cũng thế, song còn khác hẳng là còn Tam Giao Toà định phân, rồi ngày kia những đứa ngỗ nghịch phải đem vào khuôn khổ thì chừng ấy đành đúng số phận, khỏi chi phiền trách 'Thầy sao không cứu con'. Thầy cũng lắm lần dạy dỗ con mà cả con đó không nhìn nhận Thầy đây là bậc 'Đấng Cha lành'.
THI
Cú kêu thảnh thót giọng sầu bi,
Nhìn đến các con khổ nhọc thì;
Trên đảnh ve sầu dường áo não,
Dưới khe nước chảy giọng đờn bi.
Giang san xiêu đổ đành cam chịu,
Sự nghiệp hoàn toàn lại một khi;
Đừng trách móc Thầy Thầy xót dạ,
Để đem con lại tận trường thi. *
* *
Nước đổ nhà tan bởi tại đâu !
Bởi vì con trẻ rẻ chia bâu;
Thành ra phải chịu cơ tang tóc,
Ruột nát lòng đây dạ khổ sấu.
THI BÀI
Đêm thanh vắng mây tan sao tỏ,
Thầy giở đây chỉ rõ con trần;
Bấy lâu Thầy gắng dạy con,
Giờ nay Thầy được an cần bên con.
Giờ chỉ biết sông non mờ vắng,
Nhìn các con cay đắng lấn tranh;
Thầy đâu nở ngó an đành,
Đành cho con phải trách Thầy lựa phân.
Ớ nầy hởi con trần lao khổ,
Đến ngày kia chỉ chỗ con nhàn;
Cảnh Tiên con ở được an,
Cảnh Tiên, Thế Tục hai đàng chia đôi.
Thầy lắm nỗi khúc nôi từ đoạn,
Khuyên con trần hảy rán tu đi;
Vái vang Thầy Mẹ một khi,
Thầy toan độ trẻ vậy thì đở nguy.
Từ đây phải gặp thì giông Tố,
Con vái Thầy, Thầy bố điển quang;
Thoàn con được trổi qua giang,
Qua giang con hưởng thanh nhàn thả Thông.
Con phải rán làm xong chức phận,
Vì là con một Đấng Thiên ban;
Nước nhà chưa được hoàn trang,
Tất con phải khổ gian nan nhộn nhàn.
Từ bọn hgáp lấn sang Nam Việt,
Thì các con thử biết nhìn coi;
Nó còn ngỗ nghịch hiếp hoi,
Đoàn con Nam Việt chịu đày đoạ lao.
Thầy nhìn đến xót bao tất dạ,
Chỉ giáng trần tầm ngã con theo;
Con ôi ! rán vững lái lèo,
Thoàn con được vững ắt theo cùng Thầy.
Vậy hôm nay Thầy khuyên mỗi con cư trần chớ buồn lòng, không phải Thầy đem con vào hố sâu vực thẩm rồi tự nhận con vào cảnh tan tác, đau khổ, Thầy đâu phải hại con. Thầy đâu đẩy con rồi nở buông lìa con từng ngã. Thầy khuyên mỗi con nên cố gắng bằng tinh thần, Hảy cùng chung đồng chia sớt, đồng hô hào, đồng dìu dẫn cùng chung cả con đang lo về bờ cõi móng nền, thì các con cũng lấy bằng tinh thần mảnh liệt ra phấn đấu, vì con là đạo đức, lấy chữ đạo đức ra phô dựng độ đời.
Còn sau đây mỗi con lảnh tụ nơi nầy, cứ mệnh lệnh hành y, mỗi việc đáng cho phong hoá nhà Nam (2] thì cứ hành đi, nào tìm rẫy khoaimễ cốc để sẳn sàng con ta được nhờ. Nào công nghệ, tất các con phải hành. Đây là Thầy nhắc chẳng ích chi đem lại cho Thầy đâu. Chỉ Thầy bảo sơ cho
con tìm hiểu cho phong hoá của ta.
Hôm nay Thầy giáng đây chỉ có khuyên con và xót đôi gan vàng cho mỗi con còn đang bị khổ hình nhưng phải chịu , thì Thầy rất đau lòng, song con cần tưởng Thầy thì Thầy hộ con được mãng nguyện, rồi sẽ trở lại cùng Thầy, ấy là con phải đành cam chịu, nhưng con chớ buồn lòng, con cứ tưởng Thầy bên tim con đi.
Và sau đây Thầy nhắn nhẹ lại đám nữ lưu. Hảy lo cho Đạo, cố lập công lên đi, rồi bất hạn đàn nào, sẽ điểm phong cho, mỗi con cớ buồn lòng.
Nay Thầy đã mảng giờ, thì mỗi con ở lại cư trần an lo, từ mạng lịnh rán lo thành việc.
Giả tư con chốn phàm gian,
Thầy hồi Bạch Ngọc Tây phang trở về. THĂNG .
Cái bước phong trần của vị Nhân,
Từ phen thử phận với quần dân ;
Nước non rồi cũng tồn non nước,
Trách mãi Tạo Công mãi định phần.
Lão chào chư Thiên Ân, có lẽ đàn nay c hư Thiên Ân định cầu Lão dạy việc riêng phần Nhu phải chăng ! Vậy Lão định đổi lại biệt danh của hiền đệ, khi Lão chỉ đến để dạy việc là tên Nhân, hảy nghe thi : THI
Nợ nước phận trai đã phải rồi,
Nước nhà như thế dễ đâu ngờ;
Tung mây lướt gió là riêng phận,
Song cũng hỏi qua với thế thời.. *
* *
Non nước bao phen định đắp bồi,
Hai tay vơ lấy quyết cho rồi;
Song Trời chưa định kỳ Ba khởi,
Dầu có hiên ngang cũng chẳng rồi. *
* *
Nợ nước, nợ nha,ø với nợ trai,
Bền tâm hỏi kỷ Đấng Cao Đài;
Cao Đài sẽ chỉ nhiều cơ cuộc,
Định cuộc làm Cơ cho phải thời.
Nhân, hiền đệ hảy nghe Lão phân qua, mười mấy năm đuổi cầm chí nguyện của anh hùng quyết thi tài cùng đất nước, thử mạng vận cùng quốc dân, song lòng người mặc dầu toàn như thế mà Thiên Cơ chưa định vậy, cũng như gặp phải lúc nóng lòng, rồi trái chưa phải mùa, hoa chưa phải tiết, nếu lòng người như giá lạnh e không khỏi thối chí ngã lòng. Lão khuyên hiền Nhân nên nghĩ kỷ, hình như Đức Chí Tôn lập Đạo Cao Đài quyết dựng nên Ngũ Chi Lập Thế, trước ta nên làm rồi Nhơn Đạo, Thần Đạo, Thánh Đạo rồi đến Tiên hật Đạo.. Thì ra sau ngày kết liễu của Cơ Quan Cao Đài định đoạt thì thế gian nầy là cõi hật Tiên chẳng khác. Lão cũng nhận biết tấm lòng của hiền Nhân bao giờ cũng đấy đủ tư tưởng Nhơn Đạo và hiền đức non sông đã bao lần thối chí, song dạ còn nghĩ đến Luật Trời hật. Vậy Đấng Tạo Công không nở để cho một đoàn ngưòi mạnh bạo mãi dầy xéo mái mãi một đoàn người còn yếu đuối, mặc dầu mạnh được yếu thua, là lời của người phàm thường nói. Song riêng với Luật Thiên Điều, không phải thế, miễn đến thời kỳ định đoạt giải phóng cho toàn dân tộc Tiểu Bang để lập lại đời sung túc hạnh phúc cho tất cả giống người. Riêng phần người Việt Nam cũng như những giống người khác, thời thế khiến nhơn tâm con người sanh vào thời kỳ bảo thủ quyền lợi thì bao giờ cũng sẳn giọt máu độc lập trước, giọt máu ấy là giọt máu hy sinh cho đất nước, liều lĩnh cho Tổ Quốc mình để rạng danh trên thế giới,
nhìn như thế là một triệu chứng rõ ràng.
Đời hiện tại là đời tự chủ, đời có thể hiên ngang cùng Đông Tây Nam Bắc. Một vị nhỏ thiếu trí (2], thiếu tài, cũng có bộ óc hy sinh cho Tổ Quốc, thì đời như thế là đời sắp đem lại sự tư do, mà sự tư do phải sau ngày chiến đấu. Sự tự do ấy mới đủ lực lượng để tự do vĩnh trường. Nếu cái tự do mà nhờ nơi lòng thương tưởng hoặc bắt buộc mà có, thi sự tữ do không đáng kể. Nên chi riêng nước Việt Nam đều phải chịu một tai nạn triệt để rồi mới đem lại cái hạnh phúc cho quốc gia. Song khi mà các hiền được đứng tren ngày tháng hạnh phúc ấy, thì là phải là ngày tháng có đạo đức, ngày tháng đủ nhân từ thì sự hạnh phúc mới có thi vị. Cũng như trong gia đình nào mà hưởng cái hạnh phúc là toàn trong gia đình đều biết phải quấy, biết tốt xấu và biết thương yêu, chớ không phaỉo là gia đình nhiều sự bạo ngược, nhiều sự cứng cỏi vô ý mà được những ngừi trong xóm hoặc trong làng gọi đó là hạnh phúc đâu. Nước nhà cũng thế, khi mà chúng ta được hưởng hạnh phúc, thì hoàn toàn là có nhân, có nghĩa, có đạo, có đức và có được tự do, thì hạnh phúc ấy mới kêu bằng hạnh phúc. Nếu chẳng vậy, thì nước nhà phải đem đến chỗ bất hạnh phúc đó.
Thoản như (3] nước Việt Nam một khi mà kẻ thù rút lui không còn dấu chân treb6 mặt đất, hoặc dả chúng còn đông đủ mà phải dưới quyền ta, thì ta mãi lấy sự thù hềm lấy nhân đền nhân, oán trả oán, thì ta vay vay trả trả mãi. Còn một nước có đạo đức, có tính cách đạo đức, thì sự đắc thất,
sự tờn vong đề do nơi Thiên định.
Vã như nước Việt Nam được như ý nguyện của dân nên cầm đạo đức` để xử trí với tha bang, vì thời kỳ Mạt Kiếp, đâu rồi những nguyên liệu để làm ra khí giới tối tân, đều bị thủ tiêu do nơi không khí đốt; Chừng ấy chúng ta thấy được lòng nhân đạo thắng được vì ta đã thấy rõ máy Thiên Cơ. Hiền Nhân coi thử có con người nào qua khỏi Luật Trời và thắng được với chân lý đâu, thì Chơn Lý và Luật Trời là Đạo đó.
Lời kết cuộc của Lão chiều theo Thiên Cơ thố lộ ra đôi chút, sự giải phóng nô lệ của tất cả giống dân đều là hiển nhiên, mặc dầu một nước rất yếu hèn, cũng được độc lâp75 và hưởng hạnh phúc của Thiên Cơ. Nếu một nước liệt cường trên vũ trụ chỉ có quyền làm Thầy của nước yếu hèn , dạy khôn chỉ khéo, chớ không được quyền chiếm đoạt quyền lợi và lập bộ máy cai trị dưới quyền mình; Kết cuộc là đạo đức đó. Vì thế, nên Cao Đài Đại Đạo quyết đem nhơn loại đến chỗ đạo đức, rồi đạo đức sẽ lấy lực lượng mà bảo đảm toàn thể dân tộc được tự do.
THI BÀI
Nhân, giờ rảnh hỏi han Thái Bạch,
Lão không nài chỉo vạch phân ly;
Cho người biết mà đi,
Cho người biết thạnh buết để ngừa.
Máy Tạo Chưởng lọc lừa kẻ trí,
Cao Đài xây Thiên vị đổi dời;
Cơ Quan Đạo sở hành đời,
Tân Dân sẽ đổi sẽ dời nay mai.
Có căn vị tài hay muốn lập,
Trí thức nhiều muốn đắp nền công;
Vẽ vời bờ cõi non sông,
Cao Đài lóng đục dò trong kiếm tìm.
Nền Đại Đạo hết chìm đến nổi,
Đạo Cao Đài gốc cội thậm thâm;
Người vô phước, biết đâu tầm,
Hữu duyên chẳng sái chẳng lầm bước vô.
Tìm Tổ Quốc núm mồ chiến sĩ,
Kiếm con sông cốt chỉ Cao Đài;
Đạo không vắn, cũng không dài,
Không cao không thấp hằng ngày khjó trông
Đạo muốn trong hỏi lòng trước đã,
Kìa chiến tranh giặc giả tưng bừng;
Thắng ở luỹ, thua ở rừng,
Cao Đài vẫn có độ chừng quang minh.
Lời thường nói không tin không lập,
Thế thường kêu bất cập thất cơ;
Cho nên tâm trí như tờ,
Êm ru để kiếm Thiên Cơ mà hành.
Đàng non nước cạnh tranh mới thắng,
Mà cạnh tranh đã hẳn bề ngoài;
Sự cạnh tranh để lập tái,
Còn sự phục quốc, Cao Đài bên trong.
Lão nói thế là không quá đáng.