Bủu Minh Ðàn.Trang Web Phục Vụ Nhơn Sanh Miễn Phí.bất Vụ Lợi , Không Quyên góp.

TÀNG THƠ BỬU PHÁP

TỔNG QUI PHÁP

ĐỨC DIÊU TRÌ KIM MẪU

9 ĐIỀU KHUÔN VIÊN GiÁO SƯ NGUYÊN SINH

Khi hiểu rõ về hình đồ và tượng ấn của Nguyên Sinh rồi thì mỗi người hành pháp phải nắm rõ những điều cơ bản để khi đạt được Phẩm Nguyên hầu trở thành người Giáo Sư Nguyên Sinh gương mẫu.

Đây là 9 điều khuôn viên của người Giáo Sư Nguyên Sinh khi đạt được Phẩm Nguyên.

THI BÀI :

Khi thọ phẩm Giáo Sư hành nhiệm,

Điều khuôn viên phải luyện cho y,

Nguyên Sinh sứ mạng tường tri,

Dẫn đầu gương mẫu nhớ ghi lời-vàng.

Điều nào đúng việc làm cụ thể,

Phải nhiệt tâm không trễ thời cơ,

Độ người bến mộng- sang .bờ,

Tìm về cảnh giác phụng thờ điển quang.

1) Giữ hạnh người tu

Một phẩm hạnh phải làm gương mẫu,

Việc nhỏ to không dấu tánh tình,

Càng nhìn trách nhiệm Nguyên Sinh,

Càng dâng hiến cả trọn tình Đạo Cha.

Tuy nhiều việc tề gia định phận,

Nợ núi sông lòng vẫn nặng mang,

Làm sao rỡ mặt đài trang,

Sĩ Đài đứng vững vẻ vang nước nhà.

Chi chi cũng bày ra khuôn luật,

Để đặt mình thành mực mẫu đây,

Không sai chân lý của Thầy,

Hồng ân của Mẹ linh đài điểm công:

Nhờ phẩm hạnh sáng trong đức độ,

Mới đủ đầy tâm phổ Đại Đồng,

Đem mình vào sự đợi trông,

Của bao sự khổ gánh gồng đỡ nâng.

Đó giác ngộ muôn vầng sáng diệu,

Tập làm sao biểu hiệu thể linh,

Dìu nhau tỷ, muội, đệ, huynh,

Chèo thuyền Bát-nhã Giác linh trở về.

Tình bác ái lời thề son sắt,

Đem nấu nung tính chất Đại Đồng,

Thương người chưa luyện thâm công,

Thương người chưa đủ trí nhân liệu lường.

Vì phẩm hạnh người tu l à thể hiện sự hiền hòa tao nhã, từ tâm linh phát hiện đến bề ngoài: Tư cách ăn, thói ở, việc làm luôn luốn có sự phân biệt rõ rệt, không giống hẳn sự lanh lợi và đương tánh cạnh tranh của người đời. Từ việc ăn, mặc, ở đều có trật tự khuôn th.ước hẳn, và gợi lên ý nghĩa hòa đồng, cùng thức thời. tri ngộ. Phải nêu cao tư tưởng sự tiến bộ của mình càng tiến triển thêm lên. Đồng thời càng nêu cao tình bác ái. Luôn có những .ý nghĩ xót lương kẻ dưới mình. -Lúc nào cũng thể" hiện tánh tình vị tha xả kỷ.  

2) Trau giồi Văn Chương và Nho học

Hai : là việc văn chương, nho học,

Phẩm Nguyên cần tầm đọc luận suy,

Đó là phương pháp huyền vi,

Khai đèn trí huệ Mẫu Nghi ban truyền.

Sự mầu nhiệm vô biên sẽ rõ,

Tự ta tìm đều có ẩn trong,

Ẩn vào trí tuệ khai thông,

Ẩn vào tất cả tấm lòng căn duyên.

Nhờ khai thác tiếp liên điển lực,

Mới thấy rằng khuôn thước của Trời,

Gắng công rèn tạo minh soi,

Bao nhiêu khứu giác ẩn nơi khiếu nầy.


Trong cơ Pháp, vấn đề' văn chương và Nho học là một phương pháp khai thông trí tuệ, luôn luôn vui thi thơ Đạo Pháp, lấy đèn trí . huệ soi sáng tâm linh. Trình độ văn chương, dễ khai thác và sáng tạo được sự nhiệm mầu trong văn bọc, còn cái bí pháp nhlệm'mầu thì tàng ẩn trong Nho học, nên người hành pháp Đào khi đạt được : Phẩm Nguyên phải cố công truy tầm cho mình một rinh độ Nho học càng nhiều càng hay vậy.

  1. Nêu cao quang điển

Ba: là việc đủ đầy tươl tốt,

Phải nêu cao từ hột giống lành,

Cho đời noi đó tầm phanh,

Sĩ Đài thêm vững lòng thành luyện trau.

Niềm tin đó không sao dời đổi.

Thật quý thay tiếng gọi vô vi,

Khắp nơi rạng rỡ siêu kỳ,

Cộng đồng quy nhất pháp .hi tỏ tường.

Một ánh sáng dẫn đường đại chúng,

Một nguồn ân. thật vững đỡ đầu,

Tinh thần Hoẵng Pháp cao sâu,

Sĩ Đài lừng lẫy thêm hầu rạng soi.

Bởi linh căn cõi Trời Thánh Địa,

Đại duyên lành mới lẹ giác tâm,

Gặp nguồn ân lớn dẫn đàng,

Làm xong sứ mạng vẻ vang Sĩ' Đài.

Phải nêu cao quang điển của Pháp môn và tinh thần Hoẵng Pháp của mỗi Sĩ Đài. Sự niềm

tin sâu xa hướng về các đấng Thiêng Liêng vô hình đã ban truyền các Pháp môn khắp mọi nơi, thì tất cả các quang điển ấy chung quy cũng từ trong khối điển Đại Linh Quang mà ra.

Vậy tất cả là người trong vũ trụ , là một tia sáng tông khối điển Linh Quang, thì luôn luôn

tôn trọng và đề cao các Pháp môn do các đấng ban ra. Đồng thời nêu cao tinh thần Hoẵng Pháp của mỗi Sĩ Đài, cũng như phát húy tính sáng tạo và điều chuyển điển lành của mỗi Sĩ Đài.

  1. Tích cực hăng say

Bốn : là phải hăng say nhiệm vụ,

Học hói nhau tuần tự'đắt dìu,

Hạ mình tiếp độ thương yêu,

Đem lòng hỷ xả cho tiêu hận phiền.

Hoặc tự thấy sai, liền tự nhận,

Xét tâm mình tường tận căn cơ,

siêng năng khai thác cõi bờ.

Khêu lên khiếu giác để nhờ chung lo.

Sinh hoạt Đạo phải cho tinh tấn,

Ý thông minh tiến đẫn người mê,

Đem ra ý lạ chung thề ,

Làm theo định hướng mà về cũng hay.

Phải tích cực hăng say mà lo nhiệm vụ của mình để cùng được sự trao đổi và học .hỏi lẫn nhau.

Người Giáo Sư Nguyên Sinh phải có sự tích cực và hăng say tìm kiếm những báu vật

nhiệm mầu trong Pháp Đạo, tự trao đổi và học hỏi nhau sự hiểu biết hầu có đú phần trí thức để đáp ứng mỗi ngưyện vọng thiết tha của từng bước đi sau.

Luôn luôn có những sáng kiến mới lạ để sinh hoạt' Đạo có ý nghĩa khai nguồn trí huệ hướng về Cơ Pháp.
5) Có đức tánh lớn

Năm : là phải đủ tài đức, hạnh,

Phải Làm gương' cái tánh, cái tâm,

Để từng nấc thấp nương tầm,

Mới là rạng rỡ vun mầm Sĩ Nguyên.

Sự nhẫn nại cao nhiên biết mấy,

Đạo Thầy ban phải lấy điểm trung,

Trung là chánh nghĩa trung dung,

Việc chi cấn xứng chữ trung làm nền.

Phải có đức'tánh lớn và làm gương tốt cho đàn hậu tấn.

Vì muốn được các Sĩ Đài và Sĩ Tài hoànthành trách' nhiệm sau nầy, thì ngườí Giáo Sư

Nguyên Sinh trước phải làm gương tốt. Cho nên từng bước đi sau có cái định hương là theo gương người đi trước, nhứt là giới tuổi Đài trên bước đầu dễ tập thành tính tình và Pháp Đao.

  6 - Luôn tuân theo mọi điểm lịnh Bề Trên.

Sáu : là điểm lịnh trên ban xuống,

Thì Phẩm nguyên phải huớng nhiệt tâm,

không nên bê trễ sai lầm,

Đó là bí pháp đạo tâm phải cần.

Là người hà nh pháp mang ấn hiệu Giáo Sư Nguyên linh thì ở Bề Trên còn có các bậc

cao cấp điều chuyển vận hành trong cơ Hoằng Pháp.

Cũng như mọi điểm lịnh Bề Trên các Đấng Thiêng Liêng

vô hình giảng đàn truyền chỉ thì nhiệm vụ trọng trách của mình phải làm gương trung thành tuyệt đối và triệt để thi hành, để không phụ lòng của Ơn Trên điểm chỉ, và khỏi phả ngỡ ngàng từng bước đi sau.

7) Tinh thần rộng rãi.

Bảy : phải biết viêc dân, việc nước.

Không cá nhân việc phước để cầu,

Tu là cho khắp đâu đâu,

Được vui được hưởng Cao sâu diệu huyền.

Không cá nhân tình riêng rằng trọng,

Biết luật người tâm vọng đứng ham,

Cần cù tích cực lo làm,

Làm cho tất cả được an tinh thần.

Sự biết Đạo nghĩa nhân chưa đủ ,

biết hòa rnình, biết giữ yêu thương,

Biết gìn giá trị làm gương,

Biết lo' đảm trách liệu lường trước sau.

Biết phân biệt thế nào chủ yếu,

Đài Nguyên Sinh linh diệu bản tâm,

Để làm Pháp Đạo cao thâm,

Gìn câu quy luật Dương âm hiệp tề.

Phải có tinh thần rộng rãi để đáp ứng mọi nhu cầu tìm hiểu về lý pháp của người ngoài.

Không nên chen những ý nghĩ về lý thuyết của Đời, và thiên cơ lý sự. Phải hướng về Đài Nguyên Sinh to lớn làm mục đích chủ yếu và nhìn qua các Pháp Đạo chi tiết và quy luật

của Nguyên Sinh làm mục tiêu trước mắt.

8) Hội kiến Pháp môn

Tám : thiếu sót tầm phê luận nghĩ

Kiểm điểm chung chẳng vị tình riêng,

Như vầy mới gọi toàn nhiên,

Đem lòng tự gác, giác duyên đai từ.

Phải có những cuộc Hội Kiến Pháp Môn.

Nghĩa là mỗi tháng phải chiết ra từ thai lần giữa người hà nh pháp để gặ gỡ nhau mà trao đổi và gợi ý nhắc nhở nhau việc hành pháp .cho thêm phần tiến triển. Phải kiểm điểm nhau những gì thiếu sót Tự xét sửa mình và mạnh dạn xây dưng mức tiến cho nhau.

9) Vui thi thơ đạo pháp.

Chín : vui thơ càng tươi Phẩm Đạo,

Đẹp tinh thần sáng tạo kim ngôn,

Liên quan ý pháp bảo tồn,

Ngày càng rạng rỡ điểm chơn linh nầy.

Cầu trên có Mẹ Thầy gia phước

Dưới các con quyết bước nhanh chân,

Khai tâm điểm tánh xuất thần,

Báo giờ cũng được thọ ân linh đài.

Từ mức thấp anh tài lãnh hội,

Đến mức cao nào vội gấp chi,

Trường canh hành nhiệm .đúng kỳ,

Cũng không sai với huyền vi kịp giờ.

Vui Thi Thơ Đạo Pháp là một nguồn vui tinh thần được tổ chức trong những ngày đại lễ

có liên quan đến Pháp Nguyên. Cho nên từ hình thức vững chắc của đèn trí huệ được khai mở luôn nhắm vào đại hội làm cơ bản

Chín điều khuôn viên trên đây sẽ tạo thành mức tiến vững chắc của Phẩm Nguyên.

Điều nào cũng quan trọng, nhứt là điều một: Giữ hạnh người tu, Vì nó là bước đầu cũng như bước cuối, luyện từ cái Thể tới cái Linh.

THI :

Soi sáng tâm thành rạng kỷ cương, .

Lập nền Thánh thiện vững mười phương,

Khuôn viên thọ học thêm mầu nhiệm,

Pháp Đạo Hoẵng thâm sáng rực đường.

Rực đường duyên phẩm hiện gương lành,

Ai cũng.bướng nhờ phước huệ sanh.

Chân lý điểm trường minh bổn định,

căn cơ sứ mạng kịp lo nhanh.

Lo nhanh cơ vận khắp muôn nơi,

Chung một niềm tin cả Đất Trời.

Đuốc pháp huệ từ là biểu hiện,

Đèn tâm Minh Đức sang soi thời.

Soi thời đúng hướng của khoa tràng,

Sau trước thảy đều rõ lớp lang.

Đại Hội Quần Tiên nơi Thánh Địa,

Thành công chuyển vận mỗi kỳ ban.

Kỳ ban đủ mặt các căn cơ,

Sử ngọc nêu danh lúc bấy giờ,

Diệu Lý Thiên Chương, Thầy sắp sẵn,

Cho nên Mẹ chuyển lập Tàng Thơ.

Tàng Thơ Bữu Pháp được ra đời,

Là cả hồng ân khắp mọi nơi.

Có đủ chứng minh về ấn chứng,

Tùy theo cố gắng của nhiều nơi.

Nhiều nơi tìm đến dự_ầài Nguyên,

Để học vô vi, thọ bí truyền. '. .

Đời Đạo nhất thông là đạt ngộ,

âm Dương. tam hữu kết nguồn điền.

Nguơn điền là điểm luyện Thuần Dương,

Thấu đáo việc chung của mỗi đường.

Luật chỉ định kỳ cho đúng lẽ ,

Tự nhiên Thiên Địa cảm tình thương.

Tình thương mới thật lẽ mầu siêu,

Của Đấng Hư Linh hóa chuyển đều.

Vạn vật muô loàí vui thọ hưởng,

Đó là ấn phẩm rạng đanh nêu.

Danh nêu từng bước trải thời gian,

Việc Đạo việc Đời việc lịnh ban.

Sắp lại đủ đầy nơi ý nhiệm,

Giáo Sư Pháp Đạo phải chu toàn.

Trở lại trang chánh