Dậu thời, ngày 15 tháng 11 niên Kỷ-Tỵ. ĐỨC CHÍ-TÔN
BỨC TÂM THƠ THẦY HÉ NHIỆM-MẦU
THI
Cao xanh giáng bút hạ đề thơ,
Đài điện thành tâm đã đứng chờ.
Tiên thể lâm-phàm cơ mạt pháp,
Ông hoằng hóa đạo chỉnh Đồ-thơ.
Này Phục-Nguyên! Con hãy bình-tâm nghe Thầy giảng tiếp…
BÀI
Canh khuya tiếng dế nỉ-non,
Ánh đèn leo-lét nhìn con thảm-sầu!
Hiu hiu ngọn gió vì đâu?
Nỉ non ta thán mấy câu đoạn trường!
Đông về giá buốt hơi sương,
Nhìn con Từ-Phụ vấn-vương mối già?
Tuôn-dầm lệ nhỏ châu-sa,
Kề bên án-ngọc chan-hòa biết bao!
Nhìn con trong giấc não-sầu!
Lòng Thầy thổn-thức ánh dầu tàn đêm!
Mù sương rơi giọt ướt mềm,
Xạc-xào tiếng lá buông-thềm rụng rơi!
Gió đưa, đưa mãi lả lơi,
Trăng treo lơ lửng chìm nơi mịt-mờ!
Thấy sao Thầy bổng bơ phờ,
Nhìn giăng tinh tú hằng chờ con ơi!
E khi vật đổi sao dời,
Biết con đâu tá dật-dờ nơi mô?!
Ngại khi nước đổi cơ-đồ,
Thấy con đâu hỡi! Thầy chờ thiết-tha…!
Núi cao cũng có tuổi già,
Biển sâu cũng có ngày hòa cát khơi.
Lòng Thầy đau-khổ bồi-hồi!
Sợ khi binh biến con rồi hoại vong!
Đêm thâu trở giấc canh nồng,
Tiết đông lạnh lẽo Thầy trông con về!
Ngại khi trăm mối nghìn bề,
Khi gia tắc biến con hề đổi thay!
Quốc vong con phải lá lay,
Binh-đao chiến-trận xác dài thây phơi!
HỰU
Thây phơi xác lạnh cõi đồng hoang,
Thấy trẻ sầu-đau giọt lệ tràn!
Luống khổ lòng Già bao quặn thắt,
Trăm chìu rối chỉ mãi bàng-hoàng!
HỰU
Bàng-hoàng trở giấc canh-thâu,
Chiếc đèn soi bóng thiếu dầu không thông!
Kìa! Ánh sáng mờ trông leo lét!
Gió đông về như quét tàn đêm!
Hơi sương lạnh lẽo buông rèm,
Nhìn con khép mắt Thầy bèn lệ rơi!
Giọt lã-chã Cha-Trời thổn-thức,
Tiếng ngân-dài như bực cầm cung,
Đánh đàn buông tiếng não-nùng!
Gọi con thức-tỉnh hãi-hùng xác-xơ!
Đây tiếng đàn Thầy chờ bao tá!
Đợi canh-thâu buông giá bắn cung,
Phím tơ lâu quá sợ dùn,
Nên Thầy so lại nghe chung nhớ liền!
Kìa! Vạn-vật đang chìm giấc-ngủ,
Nhưng Đại-Từ ủ-rũ mày châu!
Kề bên áng-ngọc buồn rầu!
Oại-oằn thống-khổ vì đâu đêm tàn!
Điểm canh Tý bước sang giờ sửu,
Thầy đến bàn báu bửu linh-thiêng,
Gợi lên bút lạnh cơ truyền,
Đề vào mấy chữ Huyền-Thiên ra bài.
Ra bài ấy, hoằng-khai Đại-Đạo,
Giáng xuống trần Thầy bảo ban khuya,
Rưng rưng nước mắt đầm đìa!
Vừa thương vừa viết Thầy chìa cho con!
Đây tả áng sắt-son mật-khải,
Lời tình-thương đã trải ra rồi,
Muốn con về lại cựu-ngôi,
Dụ già cám khổ vậy thời chịu riêng!
Hơi sương đông làm nghiêng bạch ốc,
Chốn thư phòng gió lốc thổi sang,
Động lòng Thầy phải ngổn ngang!
Dệt thơ báu quí Ngọc-Hoàng đề danh.
Hỡi con trẻ! Mày xanh đọc lẹ,
Ngắm chữ Thầy con sẽ quên đời,
Ngộ lời Chơn-lý tu thôi,
Tàn cơ phút chót Cha Trời réo con!
Đây đầy đủ ánh son mật khuyết,
Còn ướt chữ Thầy viết đủ đầy,
Sợ rằng bạch tự lung lay,
Cuốn theo chiều gió nó bay mất liền!
Nên Thầy xếp bút nghiên một xó,
Giấy đề thơ cuốn nhỏ trong tay,
Mong rằng sóc vọng đến ngày,
Để trao con trẻ tận tay mới mừng.
Này con ơi! Chớ đừng quên nhé!
Bức tâm-thư Thầy hé nhiệm-mầu,
Lệ dòng hòa với Linh-châu.
Khai cơ mật-khuyết ngõ-hầu cứu con.
“Trao Phục-Nguyên lo tròn phận-sự”,
“Bức thơ đề chín chữ Hoàng-Thiêng”
“Để con dựng mối Gieo-truyền…”
“Bài thơ bất diệt kỷ-nguyên Tam-kỳ”
Lời bất diệt vô vi thấu triệt!
Ý gọi hồn con quyết-chí tu,
Vài hàng áng-ngọc Đồ-thư,
Đánh tan ám khí từ từ con lơi!
Đợi canh ba Thầy dời chân đến,
Se sẽ gần yêu-mến con khờ,
Mau mau trọn chữ há lờ,
“Học tròn Bí-pháp chớ mờ huyền-vi”.
HỰU
Huyền-vi áng-ngọc giá cung rồng,
Gởi xuống con hiền tả bút dòng.
Hòa mực đề thi câu Bí-khuyết,
Nhíu mày lệ nhỏ gợi tâm đồng!
BÀI
“Phục-Nguyên con! Ít dòng khuyên trẻ”,
“Cố gắng mòi, mở hé huyền-vi”,
“Xoay trong Bát-quái Tam-thi”;
“Họa vào Cửu-Cổ châu-nhi phụng-hành”.
“Con hãy gắng tạo thành Đại-Đạo”,
“Dựng mối-giềng rốt-ráo Chơn-linh”,
Thuộc lào “Bát-Nhã Tâm-kinh”,
“Hoàng-Thiêng ngự-giá Vô-hình khuyết cung”
“Nơi Đế-Ngọc Thầy dùng con trẻ”,
“Gợi tâm hiền lặng lẻ canh tàn”,
“Nay sương hơi đến Đông sang”,
“Con nung Hỏa-hậu chứa-chan đủ-đầy”.
“Tạo năng lực con xây Bửu-khuyết”,
“Dụng Tam-muội các huyệt đều thông”,
“Đó là cốt-tủy gạn-trong”,
“Đơn-điền lắng đục theo dòng nước trôi”.
“Đông là Thủy lố mòi tinh-huyết”,
“Con nấu vào Bí-khuyết Chơn-nguơn”,
“Đem âm bổ hỏa làm dương”,
“Tam-quan khai mở cửu trường sáng-soi”.
“Dụng trí-huệ con thời chặt đứt”,
“Lũ thất-tình nó bứt lìa con”,
“Pháp-Luân Tự-Chuyển” lo tròn,
“Hậu thông Khí-bảo tự con rèn-lòng”
“Nơi dương-cốc thông-đồng nghe trẻ!”
“Rút Tinh về sứt mẻ không nên”,
“Khí thăng, Thần giáng Lai-huờn”,
“Tạo nhiều nóng chuyển là con Đạo thành”.
“Rồi tự-nhiên hai lằng điễn xẹt”,
“Vào tai con nó quẹt vô trong”,
“Bắt dòng mấu chỉ lưu-thông”
“Cột vào một mối là trong Huỳnh-đình”.
“Hai lằng điễn con nhìn ắt sợ…!”
“Bạch tự ngân nó ở trái bên”,
“Huỳnh Kim-ngân ấy là nền”,
“Tả vào bên phải chớ quên điều này!”
“Hai màu vị con xoay cho lẹ”,
“Quyện vào nhau thỏ thẻ âm-thầm”,
Con ơi! Huyền-lý Kinh-tâm”,
“Mau mau học thuộc ngồi nằm đứng đi”.
Rồi đặng xuất “Anh-nhi Phục-bổn”,
“Máy linh-huyền nơi Rốn đề vào”,
“Xuất-tánh lai-đáo rao rao”,
“Mạch hầu cốt chuyển âm-giao tương-đồng”.
“Khai tam khí tròn xong nghe trẻ!”
“Bắt chuột về mèo sẽ không rình”,
“Đó là ấn-khuyết âm-thinh”,
“Con ơi! Có hiểu mà nhìn lời trao?”
Này Phục-Nguyên! Đó mấy lời Thầy giảng dạy…
con hiểu hết hay không?
P.N : Con kính bạch Đại-Từ-Phụ! Con đã hiểu rõ…
THẦY:
Mùa Đông đến, là mùa thuận-tiện,
Để con hành nhuần-nhuyển công-phu,
Con ơi! Đường Đạo bấy chừ!
Mau mau tinh-tiến “An-lư Lập-đài”.
“Từ Đơn-điền con khai Nhâm-Quí”;
“Quí trược Mồ âm-khí xung-thiên”,
“Đổi thành Nhâm-Thủy ra hiền”,
“Dương-hoàn con rút đầu tiên điễn này!”
“Rồi xông lên từ đây con nhé!”
“Rút nhè-nhẹ kẻo sẽ oại-oằn!”
“Nơi tụ bầu trược Tinh âm”,
“Con nung khô cạn rồi trồng Bửu-linh”.
“Chuyển Mạng-môn tự sinh nhiệt-huyết”,
“Hai đường âm-dương huyệt cận-kề”,
“Song le đoạt mối Bồ-đề”,
“Như luồng bạch lạp chói lòe đêm đông”.
“Đó chín hai ấy vòng tướng Khí”,
“Con nấu từ giờ Tý Canh ba”,
“Đến giờ Thủy đáo Kim hòa”,
“Mộc sanh dương lại Tam-hoa dương Thần”.
“Nơi vọng mô con cần điểm duyệt” ,
“Ở Hạ-cốc là huyệt trọng thay!”
Con mau cố gắng miệt mài,
Dùng hai luồng nhận mà khai cho tròn.
Khai đi con! Rời chơn trược-cấu,
Mở luồng sáng in dấu Đại-Từ,
Đây là bí-nhiệm diệu-thư,
Gởi con trần tục lao lư phủi lần!
“Rồi từ ấy xẹt lằng điễn giáng”.
“Nơi Vĩ-Lư con rán vọt lên”,
“Từ từ rút nhẹ Nê-huờn”;
“Rút thành một khối Linh-đơn chỗ này!”
“Nấu cho xong đúng ngày nghe trẻ!
“Nấu đúng giờ nứt-nẻ Anh-nhi”,
“Rồi con ẩm nó đem đi”,
“Vào trong Mồ-thổ uy nghi đủ đầy”.
“Dụng thần lực con xoay nhứt điểm”,
“Lấy vọng-huyền con chiếm song-mâu”,
“Trung-mồ là Thổ bắt cầu”,
“Con mau khai huyệt càng lâu tốt liền!”
“Nơi thượng-đồ cung huyền Bắc Tuất”,
“Hợi Tý Khảm là luật thiên-nhiên”,
“Con dùng nơi ấy Bổn-truyền”,
“Chính là chế dược đưa thuyền bước lên”.
“Thuyền bước lên bờ bên Bỉ-ngạn”,
“Gặp Thầy rồi tả áng thiên-văn”,
“Gần Thầy con thấy an-thần”;
“Gần Thầy con sáng Kim-ngân Mật-huyền!”
HỰU
Mật-huyền Bí-khuyết chuyển con thơ,
Giáng hạ trần-gian trẻ mãi chờ!
Gợi bút khêu dòng lên Diệu-pháp,
Vẽ vào mấy chữ chẳng phai-mờ.
Tỉnh tâm học lẹ về Thiên-điễn,
Tiếp đến cung ngôn há lặng-lờ.
Thu đáo rồi tàn mau trổi-thức,
Gió sương lạnh-lẽo chớ thờ-ơ!
BÀI
“Càng Đông giá con nhờ Khí lạnh”;
“Từ Khí này nó chạnh nước sương”,
“Con luyện Đạo phải tùng nương”,
“Lấy ngoài bố hóa trong đường chuyển Tinh”.
“Nước sương rơi con nhìn lạnh-lẽo”,
“Ví như Tinh tron-trẻo rơi vào”,
“Rồi con nấu nó nóng rao”,
“Chuyển vào hơi Khí bốc trao lên Thần”.
“Ví giọt sương lần lần bốc tỏa”,
“Khi sức nóng đã có Thái-dương”,
“Con ơi! Bí-quyết tận cùng”,
“Đâu là Chơn-thể mau dùng luyện-đơn”.
“Ánh bình-minh rời chơn lố-dạng”,
“Thì giờ Mẹo cố rán ngồi nhiều”,
“Như sương bốc tỏa hơi tiêu”,
“Như Tinh con trẻ đã khêu Khí huyền”.
“Rồi gom Thần con liền để lại”,
“Tại Nê-huờn con dạy đủ-đầy”.
“Như ngày buổi sáng quét mây”,
“Vầng-hồng lố-dạng Ngọ khai Mật-truyền”.
“Ấy mặt trời Huyền-thiên sự sống”,
“Đốt nóng con khó chống lại ru!”
“Giờ Ngọ con biết căn-cơ”,
Thì mau thâu-liễm mà chờ Dậu sang”.
“Ánh hoàng-hôn Dậu vàng buông xuống”;
“Buổi chiều-tà Thầy luống đợi chờ”,
“Kim Tây tà-ác lặn giờ”,
“Con ơi! Mau chuyển Kim-cơ Bửu-mầu”.
“Gió chiều mát con thâu cho lẹ”,
“Gió thổi ngoài se sẽ lá rơi!”
“Ví như ngọn gió trong thời”,
“Thổi tiêu trược Khí nó rơi đều đều”.
Lá rơi xuống cát đều phủ lặn;
“Trược rơi xuống nó nặng bầu Tinh”;
“Đơn-điền con hãy gom nhìn”,
“Ví như mặt cát lặng in lá vàng”.
“Rồi vun phân con bèn thổi nhiệt”,
“Dụng Chơn-ý Bí-quyết chỗ này” :
“Nấu sao đốt lá vàng bay”,
“Còn tro tồn-đọng Khí-lai Thần-huờn”.
“Là con trọn Kim-đơn con hỡi!”
“Đây mùa Đông Thầy gởi gấm lời”,
“Cho con Đạo học nhiệm khơi”,
“Suy cùng nghĩ cạn những lời Huyền-Khung”.
Bức tâm-thơ gởi chung cho trẻ,
Tùy căn-cơ con sẽ ít nhiều,
“Hiểu thông Mật-khuyết Thầy khêu”,
“Phục-Nguyên cố-gắng làm điều đầu tiên”.
“Tùy theo mùa Gieo-truyền máy Đạo”;
“Tùy tiết sang Thầy bảo con hành”,
“Mấy lời diệu tự bạch-thanh”,
“Con ơi! Có hiểu năng hành nghe con!”
Đó này Phục-Nguyên.
P.N : Con kính vâng Thầy.
THẦY : Đó là mấy lời bí-khuyết Thầy chỉ trong
mùa Đông; Bí-quyết hành-tàng của cơ ẩn nhiệm mầu-vi.
PHÚ
Máy hành-tàng Siêu-vi Mật-khuyết,
Cơ nhiệm-huyền khởi tuyết Đông sang,
Kìa! Thấy con Thầy luống xốn-xang!
“Gởi Đồ-thơ vài hàng cho trẻ.
“Mau tu đi quày-đoàn chặt-chẽ”,
“Gom-góp vào những lẽ huyền-vi”;
“Đạo Siêu-thâm Huyền-bí ảo-kỳ”,
“Có thấy rồi mới ly cảnh trược”.
Này con ơi! Diệu Đơn ô-thước,
Biển Huỳnh-hà xuôi ngược ngày qua,
Con sống trong cảnh giả sa-bà!
Nay Thầy xuống gần hòa với trẻ.
Tuy trung-gian Chơn-Đồng miệng hé,
Nhưng lời Thầy đã vẽ Đồ thiên,
Những mong con nặng mối Gieo-truyền,
Khỏa tâm-tư lụy-phiền tiêu dứt.
“Kẻ Thiên-phong chịu nhiều khổ-cực”;
“Có cực thân mới thực người tu”,
“Để sướng lòng xa biển mịt-mu”ø,
“Gợi Đạo-pháp Chơn-như Diệu-bổn”.
Thầy tốn nhiều hơi tàn khí tổn,
Thân oại-oằn nơi chốn trần-gian,
Mùa Đông sang tuyết lạnh bàng-hoàng!
Thầy nhớ trẻ đành sang áng-bệ.
Gởi vài dòng chẳng hề câu-nệ,
Viết cho mau sợ trễ con hành,
Để con làm cho thật là nhanh,
Mà ứng-diệu Tam-Thanh Phục-đáo.
Mực đã viết tuy chưa được ráo,
Ý đã thành con tạo nhanh-nhanh,
Tuy mực kia chưa đọng khô nhành,
Nhưng lời Thầy đã dành gọn đó.
“Bức tâm thơ Thầy đây bày tỏ…,”
“Để con hiền mở ngỏ Thiên-thai”,
“Ngộ Tâm-linh con đáo bổn-đài”,
“Giác Siêu-nhiên hoằng-khai tự tánh”.
“Đạo sáng thông do nơi Chơn-hạnh”;
“Huệ sáng lòng do tánh thiên-nhiên”,
“Nếu con xóa những mối ưu-phiền”,
“Tâm tịch-lặng trí liền thông-thái”.
“Và nếu con thường đêm canh-cải…!”
“Trong những giờ qua ải Huỳnh-tương”,
Để sống trong tiếng dế canh-trường,
Hòa nỉ-non mà vươn mối Đạo.
“Thì lòng con ắt nhiều thông-thạo”,
Sẽ thấy Thầy “Bổn-giáo Chơn-truyền”,
“Dạy cho con những lẽ Siêu-nhiên”,
“Mà hòa-nhập Thiêng-liêng Bổn-thái”.
“Con ơi hỡi! Ngồi lâu chẳng ngại”,
“Khép song-mâu mấp-máy chẳng xong”,
“Con ngồi thẳng xương sống một dòng”,
“Mà rút gọn Khí trong Bửu-quyện”.
“Thầy đến con những khi lặng tiếng”;
“Thầy đứng nhìn con luyện Kim-đơn”.
“Thầy sẽ vui vào lúc Phục-huờn”,
“Của con trẻ trong cơn tịch-lặng”.
Thầy ngó kề nhìn con lẳng-lặng,
Thấy con học những bận mệt nhoài!
Trong lòng con chẳng có nhòa-phai,
“Để thấu-triệt Tam-tài Vô-tự”.
“Thì rồi đó mở nhiều nhiều chữ”;
“Chữ Tâm-kinh con giữ suốt-thông”,
“Con ơi con! Đạo chỉ một dòng”,
“Nếu khai mạch nguồn tuôn trong-vắt”.
“Đạo tuy nói giá đời rất mắc”,
“Nhưng với Thầy, Thầy thật trao con”,
“Nếu những trẻ kiên-chí chẳng sờn”;
“Nếu những kẻ nhiều cơn thử-thách”.
“Mà lòng vẫn mực trung thiết-thạch”,
“Mà tâm tà quét sạch trừ tiêu”,
“Thì Thầy trao cho trẻ thật nhiều”,
“Không nói giá theo điều qui-định”.
“Thầy thấy con hạnh đà nhẫn-nhịn”,
“Thầy sẽ mời chữ Định về con”,
Để cho con học Đạo luyện tròn,
Không vướn vấp những cơn khốn nghiệt!
Sợ những lúc con đi biền-biệt,
Thì bóng con Thầy biết nơi đâu?
Nên Thầy nay mới đổ dòng châu!
Gọi con trẻ hoàn-cầu thức-tỉnh!
Con ơi con! Cuộc đời bỏn-xỉn,
Sống làm chi, toan tính làm gì?
Sao không học cơ Đạo huyền-vi?
Học không chữ khó ly nguồn nhớ.
Sao con không học câu vô thuở?
Chẳng sanh vào lầm-lỡ thế-gian!
Sao không học những tiếng Ngọc-Hoàng,
Là vô-tự chế-chan Hồn-Phách.
BÀI
Thơ đề Thầy đã ghi xong,
Gởi con ở lại trần hồng Thầy đi.
Đông sang con gắng kịp-kỳ,
Tiết trời lạnh lẽo cũng trì Luyện-đơn.
Hoàng-hôn dìu-dịu chập-chờn,
Nấu-nung khí huyết bảo-tồn Linh-quang.
Tiết Đông nay đã vào sang,
Bầu trời Tinh-tú lan-tràn tối đen.
Hơi sương rơi-rớt bập-bềnh,
Con mau chuyển giọng hòa lên cho đều.
Vầng mây đen bạc có nhiều,
Con mau đuổi trược mà khêu Đạo lòng.
Gió thổi, gió của mùa Đông,
Tuy hơi có lạnh ấm lòng nghe con!
“Đơn-điền nấu chuyển Nguyên-đơn”,
“Treo vào mễ-cốc vòng tròn Vô-vi”.
Ánh trăng, trăng chiếu lưu-ly,
Hòa theo nhịp khải kinh-kỳ châu-sa.
Véo-von ác-lặn chiều-tà,
Cũng hòa theo Đạo là-đà mới mong.
Đêm thâu canh Tý trời trong,
Con mau chuyển vận ấm lòng khắc-sanh.
Tam-muội phải vận cho thanh,
“Khí linh rút gọn tam sanh Bửu-truyền”.
“Đầu tiên một Khí hạo-nhiên”,
“Khởi giờ Tý chuyển qua liền cứu tai!”
“Hành Thủy nước chảy, chảy hoài”,,
“Ứng vào số một mà khai Đạo Trời”.
“Thiên-khai ư-Tý vậy thời”,
“Họa vào giờ Sửu, Địa nhồi Tịch-Trung”.
Con ơi! mau khá tận-cùng,
Ẩn sâu nhiệm-bí Huyền-Khung tỏ-bày.
“Giờ Mẹo con nấu lai-rai”,,
“Còn hơi sương lạnh chân tay não-nồng!”
“Con vận chuyển Khi là xong”;
Chuyển ra mười ngón đầu trong mạch cường.
Chuyển vào Khí thái mười phương;
Mười đầu nóng lại lực cường đó con!
Mấy lời gởi trẻ sắt-son,
Thầy thăng rút điễn lai chơn giả đàn.
Phục-Nguyên cố-gắng mở-mang,
Mấy lời yếu-lý Thầy đam trẻ hiền.
“Giữ lòng tịch-lặng hồn-nhiên”;
Giữ tâm bình-đẳng gieo-truyền “Hư-Không”.
“Giữ vào ý lặng tánh trong”,
Thôi Thầy vắn-tắc vài dòng cho con.
Thôi Thầy thăng.