SỞ-HÀNH TÂM-PHÁP

Nhưng người học đạo phải cho hiểu lý, còn tu-hành phải thông tâm-pháp mới rõ chắc sự thành của Phật, Thánh, Tiên.
Như Nho đọc câu minh-đức, tân-dân, chỉ ư chí-thiện thì biết làm sao cho ra nghĩa minh-đức, tân-dân, chí-thiện.
Như Ðạo Thích đọc Tâm-Kinh Quan-tự-tại Bồ-tát phải hành lý Quan-tự-tại Bồ-tát làm sao; như thường niệm A-Di-Ðà Phật thì phải hiểu sáu chữ đó đọc mà làm chi, chớ đừng gọi tụng niệm hoài mấy chữ đó mà thành đặng. Cũng chẳng nên bỏ mà không học, do học hiểu rồi phải hành như đọc bài rồi phải giải lý hành theo chớ đừng tụng niệm hoài mà hao thần tổn khí.
Vì người tu không đủ hết lòng lo cho y một mối Ðạo của Tam-Giáo như Tam-Qui Ngũ-Giới là điều-lệ bề ngoài dạy răn lòng chừa lỗi cũ, bỏ nhơn-dục đặng trở lại đàng Thiên-lý mà nhập môn tu-hành, còn giữ y theo làm không tròn đặng, huống chi là sở hành tâm-pháp nơi trong, vô hình đồ sao y đặng. Nên Tam-Giáo thường dạy khử nhơn-dục tồn Thiên-lý.
Nhơn-dục thuộc âm, ô-trược nặng nề về phần ma quỉ.
Thiên-lý thuộc dương, thanh, nhẹ nhàng về phần Tiên Phật.
Ðơn kinh dạy người phải triêu tấn dương hỏa, mộ thối âm phù, nghĩa là dạy người phục đem cái dương-khí Tiên-thiên lại, đuổi cái hậu-thiên trược khí lui dần.
Người thường đọc mà không hành lý, chỗ sở-hành là phải có Chơn-sư chỉ-giáo (khẩu khẩu tương truyền) bí-pháp tu mới thấy ấn-chứng sở-hành phát lộ. Chớ đạo-lý u thâm, huyền diệu khó tại yếu-lý huyền-vi:
Như biết hạ thủ chẳng biết thể thủ thì chẳng thành đơn.
Biết thể thủ chẳng biết lão nỏn (già non) chẳng kết linh đơn.
Biết lão nỏn chẳng biết phối hiệp cũng không thành đơn.
Biết phối hiệp không biết cang nhu cũng không thành đơn.
Biết cang nhu chẳng biết thời tiết cũng không thành đơn.
Biết thời tiết chẳng biết tấn hỏa thối phù cũng không thành đơn.
Biết tấn hỏa thối phù chẳng biết phanh luyện thì cũng không thành đơn.
Biết phanh luyện chẳng biết châu thiên độ số cũng không thành đơn.
Biết châu thiên độ số chẳng biết thăng giáng cũng không thành đơn.
Biết thăng giáng chẳng biết mộc-dục cũng không thành đơn.
Biết mộc-dục không ôn dưỡng đơn tụ rồi cũng tán.
Nên người học đạo chẳng lo không thành, duy lo tâm chí chẳng kiên bền tinh-tấn, thì cần chung đãi, lâu ngày mỏi chí. Nội-Hoàn Kinh nói rằng: biết đạo dễ, tin đạo khó, tin đạo dễ, hành đạo khó; hành đạo dễ, đắc đạo khó; đắc đạo dễ, giữ đạo khó; giữ đạo dễ, thành đạo khó. Nhược bằng đạo không khó thì Thần Tiên đều đầy dẫy như chợ đông.
Nên người học đạo phải chí-khí cho lớn đến chết không đổi biến cái tâm;
như vậy mới đứng làm Tiên Phật đặng.
Ðạo tuy rằng khó, nhưng khó dễ tại tâm người. Có câu rằng: "Tri dã chí gian chí dị, bất tri dã chí gian chí nan". Nghĩa là: Kẻ biết rất đơn rất dễ, kẻ không biết thiệt gian thiệt nan. Nên: "Tri giã di ngộ, muội giã nan hành". Kẻ trí dễ hiểu, người mê khó hành.
Hễ bền chí thì khó cũng hóa ra dễ, không bền chí dễ cũng hóa ra khó.
Tại người chưởng phước đức đầy-đủ, chí-khí cho bền, tầm chơn-sư chỉ truyền diệu-lý ấn-chứng theo kinh sách ứng nghiệm cho phù như mấy lời hỏi đây:
Làm sao biết hạ thủ tu-hành?
Làm sao biết huyền quang nhứt khiếu mà lập đảnh an lư;
Làm sao biết lục thần hội hiệp mà tập kỷ trúc cơ;
Làm sao cho biết giờ tiết mà lấy thuốc hiệp đơn.
Làm sao cho biết già non mà dùng;
Làm sao cho biết hống lai mà hiệp diên đặng hóa sanh huỳnh-nha bạch-tiết;
Làm sao biết mạnh yếu mà chế luyện cho vừa nước lửa;
Làm sao biết tấn hỏa thối phù, rằng văn phanh võ luyện;
Làm sao cho biết kiết linh-đơn rồi hóa quan phục thực;
Làm sao biết vi lư hoán đảnh đặng thoát thai thần hóa;
Làm sao tam niên nhũ bộ mà tập thần xuất xác;
Làm sao diện bích cửu niên cho hình thần linh diệu.
Như gặp Chơn-Sư chỉ truyền mấy lý đồ cho y kiểu đã hỏi trên đây, thì tu thấy ứng nghiệm mới rằng gặp Chơn-Sư chỉ giáo thì siêu khỏi đọa lầm Bàn-Môn ngoại đạo,
không uổng một kiếp cực khổ tu-hành.
Còn như tu không y mấy điều của Tiên Phật để lại đó thì là ngoại đạo dối giả; dầu có tu thì hưởng hồng phước mà thôi khó thành Tiên, Phật đặng. Nên sách nói rằng:
"Tu-hành bất minh giá ta lý, đáo để nan đáo thập điện hình".
Nghĩa là: tu không biết lý hành-vi tâm-pháp đây, dầu tu đến thác khó tránh luân-hồi đặng.