CHƯƠNG I
SỰ LIÊN HỆ GIỮA CAO-ĐÀI GIÁO VÀ HỘI THÁNH DI-LẠC
TIẾT I
:
NHỮNG HIỆN TƯỢNG SIÊU H̀NH
Triết lư các Tôn giáo
dựa trên nền tảng siêu h́nh đưa đến
kết luận : Ngoài thế giới hữu h́nh c̣n có
một cơi vô h́nh mà mắt phàm không thể quan sát được.
Từ h́nh nhi thượng học của Nho và Lăo giáo
đến thuyết luân hồi, nhân quả của Phật
giáo và quan niệm về Thiên đàng, Địa ngục
của Thiên Chúa giáo, những người hữu thần
đă chấp nhận sự hiện hữu của thế
giới vô h́nh.
Những hiện
tượng siêu h́nh và những dữ kiện vế các
động tác do sự thúc đẩy của cơi vô h́nh
đă chuyển hướng đối tượng nghiên
cứu của các nhà bác học là những sự kiện
hùng hồn nêu lên nhân sinh quan mới, tiêu biểu cho quá tŕnh
văn hóa nhân loại dẫn khởi đến một ư
thức hệ với trào lưu tiến hóa của các dân
tộc trên thế giới. Những sự kỳ bí nầy
đưa đến những phương pháp kỳ
diệu để người sống t́m hiểu về
những người ở cơi vô h́nh và các Đấng Thiêng
liêng, khởi nguyên lịch sử cơ bút Đạo Cao Đài mà
Hội Thanh Di Lạc có những điểm giống
với Cao Đài Giáo về h́nh thức lễ nghi, kinh kệ,
cách cấu cơ ...
Khi nói đến Cao Đài
giáo, người ta không thể không bàn đến các sự
kiện liên quan đến cơi vô h́nh.
Nghiên cứu một Tôn
giáo có tính cách thuần triết lư nư Hội Thánh Di
Lạc ở Vĩnh Long, nếu không đề cập
đến những thực tại có tính cách huyền bí và
mô tả những hiện tượng thần linh tại
đây th́ e sẽ thiếu sót. Những sự kiện
vừa có tính cách xă hội vừa mang tính chất huyền
bí liên quan đến Cao Đài giáo và Hội Thánh Di Lạc
Vĩnh Long là những hiện tượng thần linh do
tác động của cơi vô h́nh như thấy bàn ghế
dời chỗ hay tự nhiên nhấy bổng lên hoặc bay
lên trần nhà như bên Anh quốc hay vận chuyển làm
cây bút viết ra chữ như ở các buổi thông linh
giũa người chết và người sống ở
tại các Hội Thần Linh Học do các nhà bác học ṭ ṃ
tổ chức mà các hiện tượng nầy các nhà bác
học đă chứng minh rằng có sự hiện hữu
của cơi vô h́nh.
Ở Việt Nam vào
đời Lê và Mạc đă
có người thực hiện phương pháp cầu
cơ để họa thi, vịnh phú với các Đấng
Thiêng Liêng. Những áng văn nhẹ nhàng, linh diệu, lời
hồn nhiên thanh thoát làm người đọc cảm
thấy lâng âng hứng thú. Nhờ sự hấp dẫn
của huyền diệu cơ bút mà người ta t́m
hiểu, theo đuổi.
Theo sử liệu th́
ở Việt nam có từ mấy trăm năm
trước, chắc chắn hơn nữa là từ
thời Lê Trung Hưng ( 1542-1788) đă có ông Phùng Khắc
Khoan tục gọi Trạng Bùng được các Tiên
chỉ dạy về phương pháp đặt bàn thờ
Tiên.
Đến
dời vua Tự Đức, gặp buổi bất an, nhân dân
thống khổ, vua bèn đến nơi pḥ cơ
để hỏi, nhưng cơ bút không trả lời.
MỘt sự thật đă hiển nhiên, liên hệ
đến nhân quần xă hội và vận mạng dân
tộc, chứng tỏ rằng cơ bút là một việc
quan trọng về sự hiển linh... Nhưng vua Tự
Đức hỏi về vận mạng quốc gia th́ không
được cơ bút trả lời, là v́ „ Thiên cơ
bất khả lậu“ (1)
Ngoài
các hiện tượng kỳ bí trên, trong Thánh Kinh, Đức
Chúa Jésus cũng nói cơ duyên chuyển Đạo Kỳ Ba là
Thánh Linh Giáo:
“Nếu các người
thương ta th́ các người hăy nhớ lời ta
dạy bảo, rồi ta sẽ xin Cha ta sai Thần Cứu
Khổ khác xuống đây ở luôn với các người.
Đó là Thần Chơn Lư mà người ở thế gian
nầy không thể nào rước được, v́ không
thấy được, v́ bởi Thần ấy sẽ
ở với các người... Nhưng Đấng An Ủi
tức là Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh
THẦY, chính người sẽ dạy cho chúng con mọi
sự và sẽ nhắc lại cho chúng con tất cả
những điều THẦY đă nói với chúng con“(2)
(1)
THIỀN
GIANG PHAN VĂN TÂN, Lịch sử cơ bút Đạo Cao Đài,
Sàig̣n : HỒn Quê, 1967, tr. 34,35.
(2)
A.
Elchinger et J. Dheilly, T́m hiểu Kinh Thánh, ̀, Tân Ước,
Gioan, Trần Ngọc Thụ, Le Trung Thịnh, dg (Comitium
Saigon, 1960, tr.126.
Từ những sự kiện
trên dẫn khởi đến các điều tiên tri một
Tôn giáo mới sẽ xuất hiện trên thê giới, đó
là Thánh Linh giáo. Cơ bút đă khởi nguyên lịch sử
Cao Đài Giáo ở Đông phương.
Trung
tuần tháng 9 năm 1853 bà Girardin có đến thăm
đại văn hào Victor Hugo tại đảo Jersey,
nơi ông cùng gia đ́nh vá các bạn lánh nạn loạn
lạc. Lúc bấy giờ có phong trào xaây bàn
noói chuyeện với người
chết. Bà Gigardin bèn bày ra tṛ chơi naầy cho đỡ
buồn. Đêm 11.8.1853, trong nhà lập đàn. Những
người tham dự gồm có: Ộng, bà Victor Hugo,
Đại tá Le Flo, bà Giradin và ông Auguste Vacquerie. Hồn của
con gái Victor Hugo là Madame Charle Vacquerie, mới chết về
cơ, xưng tên rất thân mật, cho gia đ́nh biết rằng
bà hiện c̣n sống trong cơi vô h́nh. Bà về cơ là
cốt ư muốn chứng minh
cho gia đ́nh thấy rằng sự sống vẫn liên
tục trường tồn dù phải bỏ xác thân ở
cơi phàm trần.
Đêm
13.9.1963, một điển quang nhập vào cơ xưng là
Bóng Hư Linh nói chuyện với Victor Hugo, lời nói
vắn tắt mà đạo lư cao thâm, bảo ông nên tin vài
Ngôi Thái Cực (1). Từ đó cứ năm ba bửa th́
ông lập đàn nói chuyện với người ở cơi
vô h́nh. Nhờ vậy mà ông bàn chuyện Đạo, hoạ
thơ với các danh nhân, hiền triết, thi sĩ như
André Chénier, Shakespeare, Molière, Chateaubriand, Dante, Racine hoặc
nhiều vị dấu tên cưng là Thần Tử, Bóng
Dưới Mồ, Lion d’ Androclès vv. Những bài thi nầy
rất hay. Vế sau Victor Hugo có tiếp được
điển của các vị Giáo Chủ như Socrate, Luther,
Mohammed, Jésus Christ, Moise... dạy Đạo một cách chân chánh.
Tất cả những bài cơ bút nầy được
sưu tập thành Thánh ngôn quư báu.
Thấy
cần nên phổ biến cho mọi người biết,
nên đêm 11.10.1953 và năm sau, đêm 22.10.1954 ông hỏi linh
cơ: „ Những lời vàng tiếng ngọc mà chúng tôi
đă đặng nghe từ bấy lâu nay thật là
những giáo lư bí truyền vô giá, vậy chúng ta có nên đem
in thành sách không?“ Linh cơ trả lời: „ Khoan in ra, v́
chư tới ngày giờ đă định“. Ông lại
hỏi:“ Thiên cơ định chừng nào? Khi ấy chúng
tôi có c̣n sống mà thấy đặng không? Linh cơ
trả lời: “Kông thấy đặng nơi nầy th́
cũng thấy đặng nơi cảnh khác, chừng nào
đến ngày, giờ chừng ấy sẽ có lịnh
dạy. Bây giờ nếu muốn th́ nói chuyện với
những người đă có đức tin rồi. Không nên
cho kẻ khác biết“.
Victor
Hugo giữ kín những bài thánh giáo ấy trong tủ
đến khi ông mất năm 1922, tức 68 năm giữ
kín. Gustave Simon là người được lịnh cho
phổ biến sách nầy. Sách in ra bán hết, tái bản
14 lần, nhan đề là Les tables tournantes de Jersey, chez
Victor Hugo (2).
Trước
sự kiện nầy xảy ra th́ ở Trung Hoa, thời
cách mạng Ất Dậu, Bính Tư
(1983-1984)
cũng có Thần Linh Giáo ra đời khuyến thiện
chúng sanh. Sự trạng nầy
được
đề cập một cách chân xác trong quyển Kinh giáng
bút « Giác thế tân tâm » của
soạn
giả Trần Đặng Huy sưu khảo và phát hành năm
1926.
Về sau
ở Pháp vào năm 1914, Thánh Nữ Janne d’ Arc là Thần
Bảo Hộ nước Pháp có giáng bút tại nước
Algérie nói rằng đă đến ngày, giờ thế gian có
đại biến, nên sẽ có Ngôi ba của Đức Chúa
Trời truyền thần cho con người mà cứu
thế. Sự truyền thần đây tức là Thần
điển của Của Thánh Thần giáng vào cơ.
(1) Đạo Nho
chỉ Thượng Đế
(3)
LOUIS CONARD,
Les tables tournantes de Jersey, chez Vitctor Hugo ( Louis Conard,
Librairie
Editeur, 6 Place de Madeleine, Paris, 1922, trg. 99, 326
TIẾT
III .- TIÊN ĐẠO Ở TRUNG HOA TIÊN
TRI VỀ ĐẠO CAO ĐÀI
Vào
đời nhà Thanh, ở Trung Hoa có những quan về
hưu lên núi tu vả dùng phương pháp thông linh huyền
diệu bằng cơ bút để đàm đạo,
học hỏi chân lư với các bậc Tiên, Thánh. Nhóm
người nầy lập ra Phái Minh Đường, Minh Lư...
để tu Tiên. Lúc bấy giờ, trong một bài cơ
bút, không ai hiểu ư nghĩa của hai câu tơ sau đây là
ǵ :
CAO như Bắc
khuyết nhân chiêm ngưỡng,
ĐÀI tại NAM
PHƯƠNG Đạo thống truyền.
Ngày
nay ngựi ta mới biết hai chữ đầu là CAO-ĐÀI,
và là lời tiên tri : Đạo CAO-ĐÀI xuất hiện tại
NAM PHƯƠNG.
Sự
huyền diệu nầy là nguyên thủy manh nha xuất
hiện mối Đạo Cao Đài ở Việt Nam. Đạo Cao
Đài là Thần Linh Giáo.
Theo tác giả Trần
Nguyên
Lượng th́ « Thần Linh Giáo » là đạo lư
của các Đấng Thần Linh dùng phép thông thần mà
dẫn giải. Thần linh là những hồn bực cao
trong cơi vô h́nh, c̣n thông thần là phép truyền điển
cho cốt đồng mà nói chuyện với người
trần thế » (1)
TIẾT
IV.- ĐỨC THÍCH – CA TIÊN TRI ĐẠO CAO ĐÀI
Trước
Đức Chúa Jésus giáng sinh,
Đức Phật Thích Ca cũng đă nói rằng : » Phật
tương lai là một vị Bồ Tát ». Đó là danh
hiệu của Giáo Chủ Cừu Thế Kỳ Ba ở
Đông Phương mà trong Thánh giáo Đạo Cao Đài là :
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ VIẾT CAO ĐÀI TIÊN ÔNG
ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT, GIÁO ĐẠO NAM PHƯƠNG ».
Bài
Thất ngôn bát cú sau đây, khoán thủ với khoán tâm (2)
sẽ thấy rơ :
NGỌC
Kinh GIÁO luyện lư trường sanh,
HOÀNG
thiện CHỦ tâm thực hiện hành (HOÀN).
THƯỢNG
cổ
ĐẠI đồng qui vạn giáo,
ĐẾ
khai ĐẠO chánh hiệp Tam Thanh.
TÁ ngôi TAM
giáo tiên tri trước,
DANH
Đạo KỲ ba sẽ
đắc thành.
CAO
trí PHỔ thông Tôn chỉ Đạo,
ĐÀI linh
ĐỘ trẻ trọn tâm lành. (3)
Theo Sấm xưa
của Đạo Phật trong « Giác Mê Ca » cũng có
mấy câu :
Địch
không lổ, có duyên mới gặp,
Đờn
không dây vô phước khó nghe.
...........................................................
Chốn
đơn pḥng bày tỏ nguồn cơ,
Mặc
dầu kẻ ngộ cùng không ngộ,
Có duyên
gặp TAM KỲ PHỔ ĐỘ.
......................................................
Địch không lổ và
đờn không dây chỉ cơ bút. Sau nầy Ngọc
cơ cũng có h́nh dáng như cây đờn gáo. Tam Kỳ Phổ
Độ là một nền Đạo lớn, khai mở lần
thứ ba, phổ độ tất cả nhơn sanh không
phân biệt màu da, chủng tộc, Tôn giáo đă có, v́
trước Đức Thượng Đế, tất cả chúng
sanh đều là con một Cha. Con của Thượng
Đế đều được cứu rổi như nhau.
Hai Kỳ Phổ Độ trước là :
TRẦN NGUYÊN LƯỢNG,
Lẽ sống đời chung tạm, Sài G̣n : Phan
Trường, 1948, trg. 104
(1)
KHoán
thủ : Đọc những chữ đầu câu
thơ ; Khoán tâm : Đọc những chữ giữa câu
thơ.
(2)
Thánh giáo,
Cơ Qui Nguyên Thống Nhất, Hội Thánh Di Lạc
Vĩnh Long, 1969.
ĐẠI ĐẠO
NHỨT KỲ PHỔ ĐỘ ( Thời Thượng Cổ)
Đức Nhiên Đăng Cổ
Phật khai Phật Giáo,
Đức Hồng Quân Lăo Tổ
khai Tiên giáo,
Đức Văn Tuyến Đế
Quân khai Nho giáo.
ĐẠI ĐẠO
NHỊ KỲ PHỔ ĐỘ ( Thời Trung Cổ)
Đức Thích Ca chấn hưng
Phật giáo
Đức Lăo Tử chấn
hưng Đạo giáo,
Đức KHổng Tử
chấn hưng Nho giáo
và
Đức Chúa Jésus lập Thánh
Đạo bên Thái Tây.(2)
TIẾT
V .- CƠ BÚT KHAI ĐẠO TẠI
VIỆT NAM
Vào khoảng thượng
tuần tháng 6 năm Ất Dậu (1925), tại Đô thành Sài
G̣n phát khởi một phong trào xây bàn, pḥ cơ, chấp bút
để tiếp chuyện với các vong linh. Một
số trí thức, đa số là công chức ṭ ṃ dùng cách
xây bàn để họa thi, vịnh phú, xin toa thuốc
chữa bịnh hay học hỏi văn chương... Lúc đầu
dùng cơ bút để tiêu khiển, nhưng về sau bàn
đến đạo lư, phép thông thần nầy
đạt đến mức vi diệu.
TIẾT VI
.- CƠ BÚT KHAI MỞ ĐẠO
OOMOTO VÀ HINOMOTO Ở NHẬT BẢN
Việc dùng cơ bút lập
nền Đạo không phải mới xuất hiện ở
Việt Nam mà tại Nhật bản đới Minh Trị
Thiên Hoàng đă có một số Đạo gọi là OOMOTO
cũng sáng lập bằng sự huyền dieu của cơ
bút. Trong khi đó, các bài Thánh giáo của Tôn giáo nầy qua
cơ bút cũng nói về Đạo Cao Đài sẽ xuất
hiện tại Nam Phương. Điều nầy về sau
được vị Giáo Chủ Đạo OOMOTO tại
Đại Bản là ông Sao Deguchi xác nhận trong kỳ Đại
Hội Nghị Tôn Giáo Quốc Tế tại Nhật
Bản năm 1955.
Gần đây, vào đầu
năm Quư Sửu, qua bức thư đề ngày 14.3.1973,
ông Fujinomiya, Đại Diện cho Tôn Giáo Nhật Bản
Hinomoto, gởi cho Ṭa Thánh Tây Ninh, báo tin rằng ông đă
tiếp được một mặc khải ở núi Fuji
cho biết có một thánh địa vĩ đại
tại Việt nam, và dạy ông phải liên lạc với
Việt Nam (3).
Như vậy, một lănh
vực đạo đức ảnh hưởng lên xă
hội Việt nam và Nhật bản, đă làm chấn
động cả Đông và Tây phương và sự huyền
diệu của cơ bút không c̣n ai phủ nhận nữa.
Trái lại, càng ngày hiện tượng này càng phát triển
sâu rộng trong nhân gian, lan tràn khắp thế giới.
TIẾT
VII .- CƠ BÚT VÀ CÁCH CẦU CƠ
Việc cầu cơ là
sự tiếp điển của vong linh. Tiếp
điển cũng giống như sự phát và thu làn sóng
điện của radio. Người tiếp điển cgọi
là đồng tử cũng như một máy thu thanh.
« Đồng tử theo nghĩa thông thường, là
một người nhẹ bóng vía, tiếng Pháp gọi là
sensitif, ư nói như cây mắc cở, động tới là
rũ lá »(3) Đồng tử ( médium) là một
người nhạy cảm. Tinh thần và thể chất
của mỗi đồng tử có thể thanh hay
trược tùy cơ thể.
Do đó,
có người tiếp điển rất khó, có
người tiếp điển rất dễ dàng (
giống như máy thâu thanh vặn đúng tần số là
bắt được làn sóng điện ngay). tương
cầu.
(2) Tiếp Pháp TRƯƠNG
VĂN TRÀNG, Giáo Lư Tam Kỳ Phổ Độ, Sài G̣n, 1965, trg,
25.
(3)
Xin xem
phần phụ lục nguyên văn bức thư bằng
Anh văn và được dịch ra Việt văn.(4)
PHẠM HỌc TÂN, Thuật Th6oi Miên, Sài G̣n, Phạm Văn
Tươi, 1947, tr. 46.
Nếu
người đồng tử ăn chay trường th́
điển thanh, ăn thịt cá th́ cơ thể trọng
trược. Người có điển thanh th́ tiếp
được điển trong sạch của hồn
bực cao, trí thức. Người có điển
trược th́ tiếp điển nặng, hồn bực
thấp, tŕnh độ trí thức kém. Việc tiếp thu
điển lực cũng theo luật đồng thanh
tương ứng, đồng khí tương cầu.
Có nhiều cách tiếp
điển : Tiếp điển mà lổ tai nghe
rồi nói ra gọi là đồng ứng thinh ; tiếp
điển mà mắt thấy h́nh dạng ở cơi Trung
giới (1) gọi là đồng kiến ; tiếp
điển mà viết ra gọi là đồng ứng tâm.
Tuy có nhiều cách mà tóm lại, chỉ có hai thứ
đồng tử mà thôi :
1.
Đồng tỉnh : Người
đồng tử khi tiếp điển ở cơi vô h́nh mà
c̣n ư thức được như lúc b́nh thường.
2.
Đồng mê : Đồng tử mê
man,
chẳng biết ǵ. Lúc nầy cái vía ( thể vía tức
thể t́nh cảm) đă xuất ra khỏi xác thân.
Thường thường đồng mê nói đúng theo ư
tưởng của hồn giáng điển v́ đồng
tử không đem ư tưởng riêng tư để nói hay
viết ra đuợc.
Có
nhiều cách thông linh, mỗi cách đều có đặc
điểm và sự huyền diệu khác nhau. Hiện nay
các Hội Thần Linh Học trên thế giới, đa
số gồm các nhà bác học, trí thức... đang nghiên
cứu để t́m hiểu con người có linh hồn
hay không. Sau khi nghiệm chứng, rất cả đă công
nhận linh hồn người chết ở trong một
cơi vô h́nh. Cơi nầy theo người thường gọi là
Âm-phủ, theo khoa học gọi là chiều thứ tư
của Vũ Trụ và theo Thông Thiên học gọi là cơi
Trung giới (le plan astral, the astal plan, die Astralebene). Tất
cả các cơi và cảnh thấm thấu vào nhau và cũng
chiếm cùng một không gian giống như không khí thấm
vào nước, nước thấm thấu vào chất
rắn... Tuy nhiên, cơi cao hơn phần không gian bao bên ngoài
rộng hơn.(2)
Cơi Trung giới là
một môi trường sinh sống của những
người không c̣n xác thân, gồm những người
chết, các h́nh tư tưởng, những người c̣n
sống trong lúc ngủ, thể vía (le corps astral qua cơi trung
giới. Ngoài ra, c̣n có những vị boết xuất
hồn một cách ư thức để sang cơi nầy giúp
đỡ dân cư ở đây (3). Các cơi ở trên cao
hơn nữa là mội trường của các Đấng
Tiên, Phật, Thượng Đế.
(1)
Cơi
của những người chết.
(2)
Theo
soạn giả Nguyễn
Văn Huấn và Nguyễn thị Hai trong cuốn Vũ
Trụ và Con Người, Sàig̣n : NGUYỄN VĂN
HUẤN,1957, trg.26, th́ Vũ Trụ gồm có 7 cơi :
1-
Cơi
Tối Đại Niết Bàn (le plan paramahanirvanique)
2-
Cơi
Đại Niết Bàn ( le plan paranirvanique)
3-
Cơi
Niết Bàn ( le plan nirvanique)
4-
Cơi BỒ
Đề ( le plan Bouddhique)
5-
Cơi
Thượng giới ( le plan mental) gồm hai phần :
Tầng Thượng Thiên (le plan mental supérieur) và Hạ Thiên
(le plan mental inférieur) c̣n gọi là Thiên Đàng.
6-
Cơi Trung
giới (le plam astral) cơi nầy chiếu sáng.
7-
Cơi phàm
trần (le plan physique) là cơi hữu h́nh, bằng vật
chất.
(3)
C.W.Leadbeater, les aides invisibles (Paris, Adyar,) Trúc Lâm, Tri
Thiện,
dịch giả, k.t. 1972 (Bản dịch tựa : Các
vị pḥ trợ vô h́nh).
Con người có ba thể
là
xác (le corps physique), thể vía (le corps astral) ; nối
liền thể xác và thể vía th́ có thể phách (le corps
éthérique) và thể thứ ba là thể trí (le corps mental).
Cái xác cũng giống
như
một cái nhà. Vía và trí như chủ nhà. Khi chết cái xác
hư hoại cũng như caái nhà đă hư nát,
người chủ nhà không thể ở lại nơi
cũ được. Như vậy các thể c̣n lại
không thể nhập vào thể xác được. Muốn
trở lại cơi trần, người chết (hay linh
hồn) phải mượn xác thân của người con
sống giống như mượn cái nhà người khác
để ở tạm. Việc nầy phải có
điều kiện, nghĩa là người cho mượn
xác (đồng tử) phải bằng ḷng, tức là buông
xuôi, không để ư chi cưỡng lại. Trạng thái
nầy gọi là trạng thái mê trong giấn thôi miên. Khi
ở trong giấc ngũ thôi miên cái phách vá cái vía của
đồng tử rời khỏi xác. Phách là bộ phận
tiếp nối giữa dây thần kinh của các và trí. Khi
phách xuất ra khỏi xác thân, xác đồng tử không c̣n
biết đau đớn, không c̣n cảm giác nữa ( Thí
nghiệm : Thôi miên để giải phẩu hay
thuốc mê làm cái phách xuất ra khỏi xác thân). Nhưng cái
trí và cái vía của người đă chết nhập vào xác
đồng tử th́ họ cảm giác qua ngũ quan
của đồng tử. Có khi đồng tử không
biết tiếng Pháp, tiếng Anh... và kém trí thức,
nhưng khi có hồn người Pháp hay Anh, Mỹ nhập
vào th́ đồng tử bỗng nói ngoâi ngữ và giọng
lạ như người ngoại quốc, c̣n nói văn chương
hoặc làm thơ rất tài t́nh nữa là khác. Như
vậy, cầu cơ, cầu hồn nhập xác hay đi
thiếp tức xuất hồn do trạng thái thôi miên là
một kỹ thuật để người sống giúp
phương tiện cho người đă khuất sử
dụng giác quan và xác thân nói chuyện với người
c̣n sống ở cơi trần. Nhưng đồng tử cho
mượn xác thân lâu ngày th́ lần lần sẽ mất
hết ư chí, sinh lực của cái phách bị hao ṃn, nước
da thựng tái mét nhhu người bịnh. Điều nầy
mọi người đều nhận rơ khi quan sát sắc
diện một đồng tử hay xác đồng
cốt.
Người
đồng tử là người nhạy cảm, kém ư chí,
không tự chủ, dễ dàng để cho hồn
người chết nhập vào. Nhiều khi hồn không
mượn xác thân mà một phần của xác thân, như
cánh tay chẳng hạn, để sử dụng viết ra
chữ. Đó là nhập cơ. Người nhập cơ
để cho ma nhập mà chưa mê và ma chỉ sử
dụng hai bàn tay thôi th́ hồn c̣n tỉnh và họ cảm
thấy tay họ bị tê trong lúc đặt các ngón tay lê
nút cơ. Vong linh ở cơi vô h́nh quan sát thể t́nh cảm
của người sống và biết được ư
tưởng của nghững người tham dự
cầu cơ thường nên trả lời chiều theo ư
muốn của họ.
TIẾT VIII - CÁCH CẦU CƠ
1.
Cầu cơ với bàn cơ có mẫu tự La Tinh và nút
cơ
Nhập
cơ không phải là nhập xác, v́ chỉ mượn có
một phần xác thân của người sống
để huy động bàn tay viết ra chữ.
Trường hợp nầy đồng tử c̣n tỉnh,
c̣n ư thức được. Muốn cầu cơ,
người ta làm một nút cơ ( h́nh trái tim) bằng ván
quan tài khi bốc mộ dời cốt người ta
bỏ ở nghĩa địa. Bên dưới nút cơ
người ta gắn ba ḥn bi cho trơn, trượt
dễ dàng trên mặt giấy hay bàn cơ bằng cây
đánh verni láng. Làm nút cơ bằng ván quan tài thường
cầu cơ hồn ma lê nhanh hơn và rất nhiều
hơn ma giành nhau vào cơ viết hơn là làm bằng ván
thường., v́ ván nầy có « âm chất » của
người chết bên cơi trung giới hay cơi âm.
Bàn
cơ bằng giấy láng hay bằng cây, có thể
đặt lên một miếng kiếng để cơ
chạy cho trơn. Trên bàn cơ có viết chữ như
sau :
A, Ă, Â,B,C,D,E, Ê,F,G,H, I,K,L,M,N,O,P,Q,R,S,T,U,
Ư,V,X,Y,Z
Sắc ´huyền hỏi Ngă Nặng chấm
phết
Vị trí để nút cơ THĂNG CÓ KHÔNG GIÁNG
PHẬT
THÁNH
TIÊN
Khi
cầu cơ, những người tham dự cầu cơ
phải thắp nhang, đốt trầm thêm càng tốt, tư
tuởng buông xuôi hướng về thế giới vô h́nh.
Cầu nguyện hay đọc nào của vong linh. Trong hai
người, néu có một người nam và một
người nữ th́ có đủ Âm Dương th́ dễ
dàng liên lạc với cơi vô h́nh hơn. Mỗi người
đặt một ngón tay trỏ vào cơ. Trong giây lát, hồn
người chết sẽ mượn điển lực
của hai người mà tác động làm cơ chạy.
Xác thân con người có nhân điện và từ lực.
Từ nầy đưa cơ chạy lên mặt chữ,
khi dừng lại mẫu tự nào th́ điển kư ráp các
mẫu tự lại thành chư, viết ra lời hồn
ma muốn nói. Cầu cơ theo cách nầy thường
chỉ tiếp chuyện với những vong linh của
hạng người ở cảnh thấp trong cơi trung
giới và ít tiếp được những vong linh ở
cấp bực cao.
2.
Cầu cơ với đồng tử cầm dây treo bút ch́
chấm trên tờ giáy trắng
Ngoài
cách trên, các Hội Thần Linh Học bên Âu Mỹ c̣n
cầu cơ bằng cách dùng một người
đồng tử. Người nầy trùm đầu
bằng một miếng vải mỏng, ngồi gần
một cái bàn, tắt hết đền điện,
chỉ đốt đèn cầy để ánh sánh lờ
mờ. Đồng tử phải để tâm hồn yên
lặng, trống không, tay giơ lên ngang mặt cầm
sợi dây có buộc sợi chỉ treo cây bút ch́ mà
đầu ch́ để chấm lên tờ giấy trắng
để trên bàn, tắt hết đèn điện, chỉ
đốt đèn cầy để ánh sáng lờ mờ.
Đồng tử phải để tâm hồn yên lặng,
trống không, tay giơ lên ngang mắt, cầm sợi
chỉ buộc cây bút ch́ đặt trên tờ giấy
trắng lớn. Tất că những người tham dự
cầu cơ ngồi chung quanh bàn, tâm trí tưởng,
hướng về thế giới vô h́nh. Một lát sau, vong
linh sẽ mượn từ lực của đồng
tử, tác động làm cây bút ch́ viết thành chữ.
TIẾT IX.- XÂY BÀN
Người
ta dùng phương pháp xây bàn như sau :
Phương
pháp xây bàn rất đơn giản, nhưng muốn
tiếp được của các đấng Thiêng Liêng th́
người đồng tử phải có tinh thần và
thể xác nhẹ nhàng, trong sạch, cũng giống như
máy truyền thanh, truyền h́nh, muốn bắt
được làn sóng điện cao, làn rung động
nhanh th́ phải vặn đúng tần số cao tương
ứng... Do đó, người đồng tử phải
trường chay, tuyệt dục, cả tư
tưởng cũng phải trong sạch, không
được nghĩ điều xằng bậy về
t́nh dục, nghĩa là người đồng tử
phải ăn toàn rau cải, không nghĩ đến t́nh
dục trăng gió, chưa lập gia đ́nh th́ càng tốt.
Phải tỉnh dưỡng tinh thần ít nhất là ba
tháng. Khi xây bàn phải chọn một chỗ tinh khiết
và thanh tịnh để lập bàn thờ. Trên bàn thờ
chưng lư hương, b́nh hoa, nước trà,
ruợu...
Thời
gian tốt nhất là 8 giờ tối đến 12 giờ
đêm. Trước khi xây bàn, hai người đồng
tử (một Âm, một Dương) phải giữ nghiêm
trang và thanh tịnh thần trí, không nghĩ ngợi
những ǵ ngoài sự thành tâm tưởng niệm các
Đấng Thiêng Liêng th́ mới linh hiển. Một chiếc
bàn nhỏ bốn chân : ba chân cao, c̣n một chân kia
cưa bớt một đoạn chừng ba phân, làm cho chân
bàn trở nên gập ghềnh, để khi lắc qua
lắc lại, chân thấp nhịp xuống đất.
Phải có ít nhất hai người đồng tử
ngồi đối diện và úp hai bàn tay lên mặt bàn.
Độ 10 tới 15 phút sau,
chiếc bàn bắt đầu chuyển động. Đó là
triệu chứng : có một Đấng Thiêng Liêng giáng
điển huy động chiếc bàn. Mặc dù hai
người đồng tử cử động, nhưng
điển linh đă rút ra một phần chất của
cái phách hai người (là khí ether) làm ra từ lực
để chuyển động (điện có từ tính,
từ lực biến thành công năng, giống như máy
télétype). Có một khẩu ước giữa Đấng Vô H́nh
với hai vị đồng tử : Nhịp 1 lần
là chữ A, 2 lần chữ Ă, 3 lần chữ Â, 4 lần
chữ B... cho
đến 24 chữ cái. Trong khi bàn nhịp, hễ thấy
ngừng chỗ nào th́ người ngoài biên chữ ấy
ghép lại thành chữ, thành câu, thành bài thi, bài phú...
TIẾT X. PHƯƠNG PHÁP LẬP ĐÀN
CƠ TRONG ĐẠO CAO-ĐÀI VÀ HỘI THÁNH DI-LẠC VĨNH LONG
Nhờ
phương pháp xây bàn mà các Đấng Thiêng Liêng chỉ
dạy cách cầu cơ, chấp bút trong Hội Thánh Cao Đài
về sau nầy. Cách cầu cơ rất linh diệu,
nhiệm mầu và nhờ đó mà các Đấng Vô H́nh ở
cơi trên giáng bút dạy Đạo, ban Sắc Lịnh để
lập Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ cho khắp
chúng sanh, mở ra nhiều Hội Thánh như Chiếu Minh,
Toà Thánh Tây Ninh, Hội Thánh Tiền Giang, Hậu Giang... và
gần đây là Hội Thánh Di Lạc tại Vĩnh Long.
Nghi
lễ, cách thức và kỹ thuật cầu cơ tại
các Hội Thánh Cao Đài đều giống nhau. Nhưng tùy
theo lời dạy của các Đấng Thiêng Liêng mà sử
dụng các loại cơ bút khác nhau. Theo tác giả Thiền
Giang Phan Văn Tân th́ cơ bùt gồm có các loại sau đây :
Đại Ngọc cơ và Tiểu Ngọc Cơ.
1. Cầu bằng Đại Ngọc Cơ : Đại Ngọc Cơ và
2. Tiểu Ngọc Cơ h́nh dáng như nhau, nhưng khác nhau ở chỗ lớn hay nhỏ.
Cách kiến trú
h́nh Ngọc Cơ : Muốn làm một Ngọc Cơ,
người ta dùng nan chẻ bằng tre, đan một cái
giỏ dài, bên ngoài dán giáy hoặc bọc vải màu vàng và
làm cán bằng cây như h́nh cây đờn gáo. Đầu cán
chạn đầu chim Loan, phí dưới có gắn một
cây cọ bằng mây ( như trục lên dây của cây
đờn gáo) để viết lên mặt bàn.
Người ta dùng rượu pha với sáp đổ trên
mặt bàn thành chất đặc sền sệt như
sửa để cơ viết có lằn rồi
người ngồi ngoài xem lằn ấy mà đọc ra
chữ.
H́nh vẽ Đại
Ngọc Cơ
H́nh
vẽ Tiểu Ngọc Cơ
Có khi người ta
đặt trên bàn một tấm kiếng để cơ
viết cho trơn, người độc giả nhạy
điển có thể nh́n thấy những nét chữ vẽ
dưới bút (theo cuộc phỏng vấn, các đồng
tử thấy nét chữ có màu vàng như ánh đèn néon
nếu vị giáng cơ là Phật, màu xanh nếu là vị
Tiên, màu trắng nếu là Đức Thượng Đế).
Cũng có người dùng cách viết 24 mẫu tự lên
mặt giấy để mỗi khi cầu cơ chỉ
theo chữ mà ráp lại thành thi bài hay tản văn.
Phương pháp
cầu cơ rất khó khăn v́ vấn đề
huyền diệu và linh hiển của các Đấng Thiêng
Liêng. Có thể nói rằng sự tiếp điển
nầy thật vô cùng linh diệu và nhiệm mầu. Tùy theo
sự thỉnh cầu mà các Đấng giáng đàn có cấp
bậc trên đường Đạo lớn hoặc nhỏ.
Nếu Đại Ngọc Cơ mà cầu th́ sẽ có các
Đấng cao giáng đàn. Nhưng dùng Đại Ngọc Cơ là
một sự việc vô cùng bí hiểm và khó khăn.
Theo sự huyền bí
của cơ bút th́ Đại Ngọc Cơ kiến trúc như
h́nh cây đ̣n gáo. Về bí pháp, đó là một thể
hiện Thiên cơ huyền vi nhiệm mầu của
Tạo Hóa, v́ Ngọc Cơ có h́nh dáng của sao Đại Hùng
Tinh (Sao bánh Lái hay sao Con Gấu lớn hay Thất hùng tinh)
với sao Bắc Đẩu (Postar), nơi mà các nhà Thần Linh
học gọi là nơi Đấng Thái Cực Thánh Hoàng ngự.
Đầu Ngọc cơ tiện h́nh chim Phụng tức chim
Loan, nên mỗi lần cầu cơ, người ta gọi
là Đồng Tử pḥ Loan.
*
*
*
*
*
*
*
H́nh Sao Bánh
Lái (Đại hùng Tinh hay sao con gấu lớn)
và
sao Bắc Đẩu
*
Muốn thực
hiện phương tiện cầu cơ, người ta
cũng áp dụng như thể thức xây bàn, nghĩa là
cũng lập bàn thờ thỉnh cầu các Đấng Thiêng
Liêng và có hai người đồng tử ngồi cầm
hai bên miệng Ngọc Cơ và tịnh tâm. trong giây phút
đó, các Đấng Liêng Liêng giáng đàn huy động
Ngọc Cơ viết ra chữ.
Nếu đồng
tử có đặc khiếu xuất chon thần ra khỏi
cái phách để chuyển di tư tưởng th́ gọi
là luồng nhơn điển hiệp với các Đấng
Thiêng Liêng mà viết ra chữ.
Nếu tâm người
đồng tử được thanh tịnh, thần trí
được sáng suốt th́ linh điển nhập tâm mà
huy động Ngọc Cơ. Sự tiếp điển nầy
gọi là giáng tâm (medium intuitif), c̣n đồng tử không
thanh tịnh, chơn ngă bị ngoại cảnh chi phối,
th́ chỉ tiếp điển bằng cách giáng thủ (medium
mécanique), nghĩa là điển thiêng liêng chỉ huy
động Ngọc Cơ mà viết ra chữ thôi.
Cơ và bút c̣n nhiều
sự kiện huyền nhiệm hơn nữa. Theo tài
liệu của Ṭa Thánh Tây Ninh th́ ngoài Ngọc Cơ c̣n có
Diệu bút, đôi khi cũng được sử dụng.
a)
Thần cơ : Đại
Ngọc Cơ c̣n gọi là Thần cơ. Khi cầu, có hai
đồng tử : một Âm và một Dương, tuy
gọi là một Âm và một Dương, xin lư ư là 2 người
đồng tử cùng là phái nam hay cùng là phái nữ chớ
không phải một người nam và một người nữ
cùng ngồi cạnh nhau. Hiểu theo nghĩa Đại Đạo
là, ngồi bên trái từ Thiên bàn nh́n ra là Dương, bên phải
từ Thiên bàn nh́n ra là Âm) cầm cây cần (v́ Đại ngọc
cơ to hơn nên bên trong giỏ nam rộng để đủ
chỗ cho bốn bàn tay nắm cây cần phía trong giỏ
nan của Đại Ngọc Cơ).
b)
Huyền
cơ :
Khi Thần Cơ được trel
lên nóc điện thờ hay Hiệp Thiên Đài, đồng
tử ngồi hầu trước bàn thờ, không cầm
đến Đại Ngọc cơ mà tự nó chuyển
động viết ra chữ trên giấy, người ta
gọi là huyền cơ. Chỉ và trường hợp
đặc biệt, phương pháp cầu cơ nầy
được sử dụng khi có lịnh của Thiêng
Liêng. Kết quả của những buổi đàn cơ
nầy rất hi hữu, huyền diệu. Người
không tin tuởng cơ bút, khi mục kính cũng phải kính
sợ.
c)
Diệu bút : là một cây
bút bằng
gỗ, to độ ngón tay cái hay lớn hơn, làm bằng
gỗ quí sơn son thếp vàng, chạm trỗ h́nh rồng
xung quanh. NG̣i bút là một búp sen sơn đỏ. Diệu
bút c̣n gọi là Thần bút. Khi cầu cơ, chỉ cần
một đồng tử cầm bút, vừa viết
vừa đọc. Cáv vị điển kư ngồi hai bên,
phải phân công : một người viết ba chữ
đầu, một người viết bốn chữ sau
của câu thơ, c̣n văn xuôi th́ phải viết
đoạn đầu và đoạn cuối tùy theo sự
phân công trước mới ghi chép kịp. Khi xong hai bản
phải ráp lại. Khi giáng bút một đoạn dài, các
Đấng Thiêng Liêng dạy các điển kư b́nh lại ( ngâm,
đọc các đoạn đă viết), nếu chỗ nào
thiếu hay sai th́ Thần bút viết lại để
sửa liền.
d)
Huyền
bút : Thần bút được treo lên nóc
điện thờ, Thánh thất hoặc Hiệp Thiên Đài
(1), nhất là tại chùa Tam Tông Miếu tại Sài g̣n tuy
thờ Tam Giáo mà giai đoạn đầu tiên cũng
đă sử dụng huyền bút một cách huyền
diệu mà các học giả là
những nhà khoa học mà phải bó tay khi giải thích
trường hợp không có bút và tự ở đâu đă
được viết chữ khi
tờ giấy trắng gói lại treo lên nóc chùa, khi
xong dàn cơ, mở ra th́ thấy chữ. Làm sao cắt
nghĩa được hiện tượng nầy
bằng khoa học ?. Khi cầu cơ, Thần bút
viết ra chữ mà không cần có đồng tử
cầm bút. cách cầu cơ nầy huyền diệu phi
thường.(2)
Trên
đây chỉ là phần tŕnh bày đại
cương ; thật ra, cơ bút c̣n nhiều sự
tế nhị như : đức tin của đồng
tử, của các vị hầu đàn, các vấn
đề vượt ra ngoài phạm vi Tôn giáo và Thần
linh học, chính trị, tâm lư... và nhất là những
đàn cơ không nghiêm trang, các vong linh hạng thấp mà
cũng nhập cơ xưng đấng nầy,
đấng nọ để dạy Đạo hoặc chia
rẻ, trái với cơ Trời, trái với chân lư, làm
mất đức tin nơi đạo hữu vv. Điều
nầy nguyên nhân khai mở Hội Thánh DI LẠC Vinh Long
để chấn chỉnh lại.
e)
Chấp bút
Ngày
xưa các Tiên tri mặc khải hay trực giác viết ra
Kinh Thánh. Các ngài tuy không là đồng tử, nhưng
nhờ trực giác hay theo luật đồng thanh
tương ung mà các ngài nhận được những luồng
điển giống như những làn sóng của máy Fax
không dây nên các ngài viết ra Kinh Thánh coi như Thiên
ư ha lời của Chúa Cha. Khi
các phương pháp mới có tính cách khoa điện từ
học qua nhân điện mà bàn tay các đồng tử
nhận từ điển của chư Thiêng Liêng hay
chư Thần Minh như trường hợp Bác sĩ Allan
Kardec đă thực hiên, th́ sau nầy chư đồng
tử cầm bút viết trong trạng thái mê, nghĩa là
không có thức thần của cá nhân đồng tử
hợp với từ điển của chư Thiêng Liêng mà
viết Thánh giáo có chen phám ư. Cũng có khi đồng
tử là những vị
ăn chay trường, nghĩa là cơ thể hay Tiểu
Thiên Địa không c̣n nhiều trược điển,
hằng ngày có công phu thiền định, không bị
việc đời chi phối, th́ khi cầm bút trong
trạng thái tỉnh vẫn nhận được từ
điển thiêng liêng viết ra Thánh giáo gọi là chấp
bút. Thường thường những hành giả tu theo
Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi tu đến Nhị Bộ trở
lên khi tâm tịnh và ngồi trước Thiên bàn hay gần
Thiên bàn hay nơi đơn pḥng yên lặng viết bài cho
báo Đạo th́ cũng có trạng thái như Ơn Trên ban
từ điển làm cho bàn tay tự nhiên viết ra thi phú
hay Thánh giáo. Những bài Thánh giáo được viết ra
ở những trường hợp nầy làm người
ta nghi ngờ, cho rằng có phàm ư
v́ chấp bút trong trạng thái tỉnh chớ không mê,
mà tỉnh th́ có ư riêng trong đó rồi.
Tuy nhiên,
chư vị tu từ Nhị bộ trở lên
thường có tâm thanh tịnh và những lời dạy
th́ do THẦY chỉ bảo cách thiền cho đúng, sửa
đổi chỗ sai hay THẦY giải đáp những
ưu tư trong tâm trí của vị chấp bút hay của
chư vi ngồi gần hay hầu đàn sau khi cúng xong thay
v́ cầu cơ th́ chấp bút.
Người
khác đọc qua Thánh giáo do chấp bút thường
biết được ngay Thánh ư hay phàm ư, khi lời
xưng của chư Thiêng Liêng luôn luôn khiêm nhượng,
đầy ḷng bác ái, thương yêu dạy dỗ chớ
không có những danh từ quá phàm tục. Người tu
thường hay cẩn thận xem xét từng chữ,
từng câu. nếu thấy lời dạy tương
tư như các Thánh giáo đă có trong Thánh Ngôn Hiệp
Tuyển hay Thánh Giáo Sưu Tập th́ cũng không phủ
nhận ǵ. Việc tin hay không là do chính mỗi người
tùy theo tŕnh độ và mức tiến hóa về tâm linh nên
theo luật đồng thanh tương ứng đồng
khí tương cầu th́ Thiên và nhơn sẽ hiểu là
thật hay giả, v́ Đức Thuợng Đế cũng đă dạy
là chúng ta nên lưu ư khi Quỉ Vương nó cũng dám
xưng danh của ngài, chỉ có ngai của ngài nó không dám
ngồi mà thôi.
Đức
Di
Lạc có dạy:
Lợi
dụng Thiên Khai Đạo Huỳnh,
Cũng cơ bút
chuyển huyền linh Ngọc Hoàng.
....................................................................
Ḷng dục vọng nhân
tài Đô thi,
Tưởng đâu rằng Thiến
ư bày
khai,
Nào
ngờ lũ quỉ dụng oai,
Mượn
danh Ngọc Đế, mà bày chuyện riêng.
Khổ cho Đạo
điều nghiên chẳng nổi,
Cứ măi mê tiếng
gọi rền vang,
Lư thuyết
mê hoặc rơ ràng,
Cũng
xưng Thần Thánh, Đạo Vàng khuếch trương.
Đức
Ngọc Hoàng Thượng Đế vào năm 1933 có giáng cơ
dạy là phải biết phân biệt cơ bút như sau:
Các con nam, nữ
phải tập tánh cho biết phân biệt cái nào phải,
cái nào quấy, điều nào thiệt, điều nào
giả.
Các con chẳng nên
vội nghe, vội tin, rồi đén khi các con bị
khảo th́ các con đem ḷng hoài nghi có thể hại cho các
con lắm.
Trong việc cơ bút,
các con cũng phải tập tánh cho mau hiểu, như
điều nào các con cho là chánh th́ hành. V́ trong điều
cơ bút, có nửa phần của THẦY, nửa phần
của đồng tử và có khi sen lộn tư
tưởng của các con vô.
Nhiều khi Đàn không
tịnh, bị lạc điển và có khi hạ
đẳng Thần truyền tư tưỏng xen lộn
vạ mà thử các con.
Cần yếu nhứt
là các con phải có đức tin cho mạnh, sau các con có
bị khảo cũng có thể cho các con thấu rơ lư
phải nghe.
Ngọc Hoàng
Thượng Đế, TT/TT 15/5 Quí Dậu (7/7/33)
............
Các con phải t́m
chơn lư mà thấu hiểu lễ Đạo.
Đạo là
mầu nhiệm cao sâu. Vậy các con phải đem hết
tâm trí mà kiểm hiểu, chẳng nên quá ư mê tín, rồi
các con đụng đâu nghe đó, v́ Tà quái nó nhử các con
một cách khéo léo vô cùng.
Các con nhớ bài
THẦY dạy hôm nay, rồi sau các con sẽ thấy rơ
ràng.
Ấy, các con đem
Thánh giáo ngày hôm nay mà thức tỉnh anh em của các con.
THẦY lấy lẽ
công b́nh dạy các con học cho rơ lư Đạo. THẦY cứ
lấy lẽ công b́nh mà để Tà quái khảo và thử
các con đủ lẽ.
Đứa nào Tâm chánh th́
theo THẦY, đứa nào tà vạy, dục vọng th́ theo
quỉ yêu.
Các con suy gẫm
rồi phân biệt chánh tà.
TT/TT
15/5/ Quí Dậu (7/7/1933)
Cơ bút là cả
một sự ihó phân biệt. Vậy nên nghe những
lời THẦY nhắc nhở Đàn nay mà khỏi lầm
lạc về cơ bút.
LH
20/3/1969
TIẾT XI.
LỊCH SỬ CƠ BÚT
ĐẠO CAO ĐÀI VÀ HỘI THÁNH DI LẠC
Vào ngày 10 tháng 6 năm
Ất Sửu (1925), có một vị giáng cơ, xưng là
Đoàn Ngọc Quế cho một bài thơ Thủ Vĩ ngâm
tuyệt bút như sau :
Nỗi
niềm tâm sự tỏ cùng ai,
Mạng
bạc c̣n Xuân uổng sắc, tài.
Những
ngỡ trao duyên vào Ngọc các,
Nào
ngờ phủi nợ xuống tuyền đài.
Dưỡng
sanh cam lỗi cùng sông núi,
Tơ tóc
thôi rồi nghĩa trúc mai.
Dồn
dập tương tư c̣n một gánh,
Nỗi
niềm tâm sự tỏ cùng ai.
Về sau
được biết bài thơ nầy của cô
Vương thị Lễ, tức Thất Nương Diêu
Tŕ Cung (3)
(1)
Hiệp
Thiên Đài là nơi cầu điển linh để các
Đấng Thiêng Liêng giáng cơ dạy Đạo.
(2)
Cách
cầu cơ bằng huyền bút chỉ được
sử dụng vào giai đoạn đầu của
việc khai mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
tại Toà Thánh Tây Ninh. Hiện nay tại các Hội Thánh
không c̣n sử dụng kỹ thuật cầu cơ nầy
nữa, chỉ dùng cơ bút mà thôi,
(3)
Vị Tiên Nương thứ
bảy hầu Đức Phật Mẫu hay Đức Mẹ Diêu
Tŕ KIm Mẫu ở trên Cung Diêu Tŕ.
tá danh Đoàn
Ngọc Quế, dùng lối giáng
thần cho thi như trên là để huấn luyện
đồng tử, cốt cho người hâm mộ, theo
học mà không chán.
Ít lâu sau, có có một
chơn linh khác giáng đàn với với một thần
điển phi thường, xưng là A, Ă, Â, cho
nhiều bài thi xuất sắc và xân hướng luận đàm
về đạo đức, rồi kết quả là
cả những người hầu đàn hợp thành
một nhóm đồng chí để hằng ngày tiếp tục
nhau và cầu nguyện thỉnh ông A, Ă, Â vui ḷng cho
biết tương lai chung của Tổ quốc Việt
Nam, ông A, Ă, Â chỉ dạy cặn kể từ
việc nhỏ đến việc lớn, từ nhập
thế đến xuất thế, từ triết lư cao thâm
đến cách tổ chức Toà Thánh vv. Sau hết tiết
lộ ra th́ « A, Ă, Â » là biệt hiệu của
Đức Cao Đài Thượng Đế. Đức ngài nói rằng
« Ta phải hạ ḿnh làm một chơn linh
thường để cảm hoá các con ».
Xưa kia Đức Chúa
Jésus phải hạ ḿnh mang xác phàm để cứu thế,
ngày nay Đức Thượng Đế ( Ngôi Ba Đức Chúa Thánh
Thần, tuy ba là Một) lại giáng thế bằng cơ
bút để độ nhơn sanh.
Ngày 30 tháng 10 năm
Ất Sửu (15.12.1925) Đức Chí Tôn dạy phải
lập bàn Vọng Thiên cầu Đạo và phải dùng lối
pḥ cơ để tiếp xúc với Đức Ngài.
Đêm 24.12.1925, ngày Chúa
giáng sinh mở Đạo bên Rây phương, Đức Chí Tôn
dạy rằng :
« Ngọc Hoàng
Thượng Đế viết Cao Đài Tiên Ông Đại BỒ Tát
Ma Ha Tát, Giáo Đạo Nam Phương,
THI :
Muôn kiếp có TA
nắm chủ quyền,
Vui ḷng tu niệm
hưởng ân Thiên.
Đạo mầu
rưới khắp nơi trần thế,
Ngàn tuổi muôn tên
giữ trọn biên.
Đêm nay TA vui mừng, ví
là ngày TA xuống trần dạy Đạo bên Thái Tây
(Europe) ».
Từ đó về sau,
qua cơ bút, Đức Chí Tôn đă lập một Hội Thánh
tứ Ṭa Thánh Tây Ninh gồm ba Đài : Bát Quái Đài, Hiep Thiên
Đài và Cửu Trùng Đài. Thánh giáo viết ra Tân Luật, Pháp Chánh
Truyền, dạy tỉ mỉ từ cách tổ chức,
nghi lễ, cách may lễ phục, cách xây cất Toà Thánh, các
cơ sở liên hệ... cho đén triết lư cao dâu của
nền Đại Đạo như Vũ Trụ Quan, Nhân sinh quan
gồm :
Thánh giáo
dạy rằng:
“Đạo tuy chia ba
cội, Năm Nhánh, nhưng quyền chỉ huy có Một :
Là chính do Ngôi THẦY mà lập ra. Ba Phái, Năm Chi chẳng
khác nào một cái lồng kiếng nhiều màu.... chó kỳ
thật nguyên bổn ở bề trong vẫn có một
ngọn đền chiếu ra nhiều màiú bạch quang tinh
khiết. Đạo
là vậy đó ! Vẫn có
một mà thôi.
Kể
từ thuở Trời Đất gầy dựng,
Sanh
loài người chí những đến nay.
Nhiều phen giáng thế
chỉ bày,
Tùy
theo thời cuộc cũng THẦY mà thôi »
Đạo
chia ra nhiều mối để đưa nhơn sanh
đến chỗ quán thông đạo lư, rơ máy huyền
cơ, rồi tự mỗi cá nhân tu tiến để
tạo cảnh an lạc. huynh đệ đại
đồng, Tôn giáo duy nhất.
Nhưng
Đạo lại tách riêng nhiều Phái,
Để
tuỳ nhơn, không phải thất truyền,
Đạo
chia Tiền, Hậu nhị
Thiên,
Về
khoa siêu thoát tâm truyền cơ quan.
............................................................
Do
đó, Đạo Cao Đài tuy qui nhứt các Tôn giáo, nhưng khi Đạo
lại chia ra nhiều Chi Phái Đại Đạo, có thể xem
như các bậc học, mà Đức Thượng Đế Cha
Chung Nhân Loại dạy những tŕnh độ khác nhau
như bậc Tiểu học, bậc Trung học, bậc
Đại Học, Ban Cao Học. V́ thế Đạo Cao Đài có 12
Chi Phái, tùy theo căn cơ, khả năng, mức tiến
hóa mà con người có thể hành như sau :
1.
Phổ Thông Giáo Lư
Cao Đài,
2.
Tu thân, tu học, tu
hành,
3.
Tu luyện ( thiền
định)
4.
Sưu tầm giáo lư để
phục
hưng chơn truyền Tam Giáo và Ngũ Chi,
5.
Thực hành thuyết
Trung Thứ của
Nho giáo,
6.
Đào tạo Thanh niên
và Thanh nữ đạo
đức,
7.
Phổ độ chúng sanh và
sưu tầm
giáo lư Cao-Đài,
8.
Minh Chơn Lư (Đạo
giáo),
9.
Thực hiện chủ nghĩa
đại
đồng (Đại đồng Tôn giáo, Đại đồng
huynh đệ),
10.
Lập
Liên Tôn Tổng Hội để liên hiệp các Chi Phái,
11.
Liên
hiệp tinh thần các Tôn giáo địa phương,
12.
Thống
nhất tinh thần Đạo Cao Đài vv.
và hiện c̣n có đến
24
Chi Phái hay hơn nữa.
Sở
dĩ có biến sanh ra sự chia rẻ Chi Phái của
Đại-Đạo chẳng qua là nhiệm mầu bí ẩn
của cơ Thiên, tùy thời vận chuyển, tăng
cường cho cơ Phổ độ được
dễ dàng phát triển và vượt qua các trở lực
của đời. Laị nữa, có chia ra như thế,
cơ Phổ Độ mới mau hoằng hoá khắp nơi
tùy sở thích của nhân sinh mà lộ ra đủ màu sắc,
đủa các phương diện. Nhờ đó, giáo lư
mới được thấm nhuần trong dân chúng, các
vị Thiên phong, Chức sắc và Đạo hữu Luỡng
Phái mới có cơ hội thuận lợi lập nhiều
đạo công trong kỳ Phổ Độ.
Các
môn đồ Đại Đạo mặc dầu có nhiều duyên
cớ hoặc quan điểm bất đồng, hoặc
v́ tŕnh độ tiến hóa, hoặc v́ chí hướng khác
nhau, nên buộc ḷng chia ra Chi Phái, nhưng tất cả
đều tôn thờ một Đấng Duy Nhất Tối Cao
là Đức Cao Đài Thượng Đế. Tất cả
đều được đối đải
đồng đẳng như nhau, cùng chung un đúc tinh
thần đạo đức. Phần đông đều
nh́n nhận giá trị của Tân Luật, Pháp Chánh Truyền
hiện hữu và đồng nhất tâm lo phổ
độ nhơn sanh.
Theo
Thiên lư, Đạo Trời tuy phân chia làm nhiều Chi Phái cần
liên lạc thường xuyên và mật thiết với nhau.
Nếu việc phân chia là như vậy mà các Chi Phái hoạt
động riêng rẻ, không chịu hợp tác lẫn nhau
th́ làm sao nền Đại Đạo chống vững
trước mọi sự khó khăn của mọi cơn
thử thách do sự biến chuyển liên miên của
thế cuộc. Các Chi Phái bất đồng quan
điểm không ḥa hợp nhau, gây nguy cơ cho Đạo, làm
cho chúng sanh phân vân, thử hỏi tại sao Tôn chỉ
Đạo là Từ bi hỉ xả, bác ái, công b́nh mà mục
đích của Đạo là QUI
TINH THẦN TAM GIÁO, HIỆP NHẤT TINH THẦN NGŨ
CHI, lại tự ḿnh chia rẻ ra nhiều Chi Phái, rồi
lại không ḥa hiệp nhau. Như vậy có phải tự
ḿnh mâu thuẫn hay không ? Và tức nhiên họ cho lời
tuyên bố và hành động không đi đôi với nhau,
nên Cơ Phổ Độ phải v́ thế mà ngưng trệ.
Đó là t́nh trạng hiện nay. »(***)
TIẾT XII. – CƠ QUI NGUYÊN THỐNG NHẤT
KHAI MỞ
HỘI THÁNH DI-LẠC
Đạo
Cao Đài khai sáng từ năm 1926. 33 năm sau, tức là
năm 1959, v́ sự chia rẻ mối Đạo mà Đức
Thượng Đế lại dạy Cơ QUI NGUYÊN THỐNG
NHẤT trong một buổi đàn cơ đêm mùng ba tháng
Giêng năm Kỷ Hợi (10.2.1959) tại Cao Thượng
Bửu Ṭa, Ṭa Thánh Hậu Giang, Vĩnh Lợi, Ba Xuyên (Sóc
Trăng) như sau :
THẦY
THƯỢNG ĐẾ giáng đàn mừng trẻ,
Miễn
lễ con an toạ tĩnh tâm,
Thấy
con THẦY nhỏ lệ dầm,
Bởi vui lối
quỉ theo lầm đường ma.
Kiểm
điểm lại ba ba năm lại ( 33 năm Đạo),
Trong
mưới hai CHI PHÁI Đạo vàng,
Đầu
tiên vạch rơ con đàng,
Con
th́ bước thẳng, con càn chông gai.
Cũng
có con đi ṿng đi tắt,
Cũng
có con đi Bắc về Nam,
Chung
qui th́ cũng KỲ TAM,
Đứa
th́ bớt một, đứa làm thêm năm.
..........................................................
MƯỜI
HAI PHÁI, Cơ Trời đă định,
Nay
đủ rồi ! chấn chỉnh huy hoàng !
Trước
ngày khai Đạo TIỀN GIANG,
Ngày
nay THỐNG NHẤT rỡ ràng HẬU QUI.
Và
Đức Di Lạc vâng lịnh Đức Thượng Đế
dạy Cơ Qui Nguyên Thống Nhất, chẳng những
các Chi Phái của Đạo Cao Đài mà c̣n qui hợp các Đạo
giáo vừa mới khai mở ở Miền Hậu Giang
nữa ( như Bửu Sơn Kỳ Hương, Phật
Giáo Tứ Ân, Phật giáo Ḥa Hảo...v́ Đức Huỳnh Giáo
Chủ cũng đă có giáng cơ trong Đạo Cao Đài)
để kịp đén Kỳ Long Hoa Đại HỘi
của thời Hạ Nguơn Mạt Pháp, mở một chu
kỳ mới, lập đời THƯỢNG NGUƠN THÁNH
ĐỨC mà Đức Di Lạc sẽ là Đấng Christ giáng
tại Việt Nam, gọi là Di Lạc Phật Vương
Cứu Thế.
Người
Tây phương chưa hiểu cơ bút, chưa tin
những Thánh giáo do cơ bút viết ra mà chỉ tin nơi
Kinh Thánh, người Việt nam đă theo Đạo Thiên Chúa
cũng tin những ǵ do các linh mục giảng trong nhà thờ,
không tin những ǵ ngoài Thánh đạo và cho là ngoại
đạo. Họ cũng cho rằng người
người theo Đạo Tin Lành đă tách ra khỏi Giáo
Hội La Mă v́ họ cho Hội Thánh do Thánh Paul lập ra, c̣n
các Giáo Hội Thệ phản do những vị chức
sắc tách ra như ông Luther...hay Anh giáo hay trên 250 Giáo
Hội mới bên Hoa Kỳ là do ư hướng mới
của nhơn sanh. trong số những người
thuộc Thánh Đạo theo Đạo Thiên Chúa La Mă và những
vị theo Đạo Tin Lành, vài sinh viên đang học tại
Đại Chủng Viện Vĩnh Long cũng đến xin
tài liệu về Đạo Cao Đài để nghiên cứu. V́
hiếu kỳ cũng có, v́ chưa chắc hướng
đang đi đúng cũng có, v́ thích nghiên cứu những
điều mới lạ như cơ bút cũng có... nên
một số tín đố mọi Tôn giáo thường
đến chùa Di Lạc hay Trước Lâm Thánh Đức Thiền
Điện đụ đàn cơ, vào Vạn Hạnh Đạo
Tràng ở phí sau nghe thuyết giảng, học Thánh giáo, bàn
luận vế các Đạo và có lần học cả Espéranto
nữa. Những vị nầy lần lần chuyển
hưóng vào một đức tin mới, tuy không bỏ
Đạo cũ, nhưng có đức tin đa giáo và khi
tại Chùa Di Lạc có tổ chức Đại Lễ Mùng Long
Hoa Hội Khai Diễn trong 12 ngày từ ngày mùng
8 tháng 10 năm Giáp Dần (
21.11.1974) đến ngày 20.10 Âm lịch (3.12.1974) chư
vị nầy mới ṭ ṃ và mượn Thánh giáo để
đọc, v́ trước đó chư vị nầy
đă dự đàn cơ và có
nghe điển kư đọc Thánh giáo cơ bút do Đức Di
Lạc dạy là : Kể từ nay không được
mặc đạo phục, không được tổ chức
cầu cơ nữa, phải về nhà lo ẩn tu
để tránh bị khảo đảo..., nhưng chư
vị nầy không biết tại sao Đức Di Lạc không
cho công khai tu hành nữa và không biết Long Hoa Hội là ǵ,
có vị hỏi các anh lớn th́ chư vị nầy cho
biết vài tháng nữa sẽ rơ là thế nào. Vị
Chưởng giáo Hội Thánh Di Lạc là ngài Thiên Đức
Nguyễn văn Các sau đó đốt hết Thánh giáo
đă in tại Trước Lâm Thánh Đức Thiền
Đ́ện, chư vị khác c̣n những ấn bản ronéo
để ở nhà th́ ngài Thiên Đức bảo nên cất cho
kỹ, ai cũng lấy làm lạ không biết tại sao và
mọi người chờ đợi coi có ǵ xảy ra
không. Có một vị có Thánh danh là Huệ Khẩu bảo
rằng cơ bút Đức Di Lạc có dạy:
Tổ
Tiên đă đổ màu đào,
Cũng v́ Hồng Lạc sa
vào hố sâu”.
Cũng v́ tổ tiên của
giống Lạc Hồng đă mở mang bờ cơi, nhưng
cũng v́ gây cộng nghiệp nên chúng ta là con cháu phải
chịu trả quả do quỉ ma sẽ đến
khảo đảo. Ngài Trần Văn Quế, Hiệu
Trưởng Trường Sư Phạm Sài G̣n cũng đă
có lần than là nhiệm vụ của ngài không thành v́ khó
thống nhất qui nguyên quá. Đó cũng tại ḷng
người, cũng tại chúng ta. Nếu chúng ta không làm
được việc thống nhất th́ quỉ ma
sẽ khảo đảo nặng và thống nhất dùm
chúng ta bằng luật của phàm, v́ Thánh giáo đă dạy
nhiều mà chúng ta c̣n phân chia măi hoặc cứ lo làm chánh
trị mà không lo tu hành thật sư.
Các Chương kế và
Phụ Bản sẽ nói rơ về Đại Lễ Mừng Long
Hoa Hội Khai Diễn.
_____________
(***) LƯƠNG VĂN
BỒI, Thống nhất tinh thần, Đại Đạo
nguyệt san, Bộ mới, số 1, ngày 30.12.63, trang 15.
Email : haphuocthao@hotmail.com