Đại Đạo vô hình, khó phát minh, Nhìn cơ Trời Đất, học tâm linh Minh tâm nghiệm xét cơ huyền nhiệm, Mà biết Đạo Cao để giữ gìn.
Đất Trời muôn thuở rộng thiên-nhiên Mở máy Âm Dương học Đạo Thiền, Mở mặt “Tam Tài” trong vạn vật; Thoát ly trần cấu mới làm Tiên Tánh Mạng là căn Đạo nhiệm mầu, Song tu Tánh Mạng khỏi tha cầu, Đất Trời gồm đủ, thông giềng mối; Chánh Pháp do “Tâm” đạo thượng đầu.
Đại Đạo không có hình, Trời Đất là cái Đạo có hình. Trời Đất không nói ra lời. Thánh nhân là Trời Đất nói ra lời. Thánh nhân ta không đặng giáp mặt với các ngài, chớ không phải là không thấy kinh sách. Thấy kinh sách mà rõ được nghĩa lý, thì có khác chi thấy Thánh nhân đâu?
Trời sinh hình thể ta, Trời phú bản tính ta, trong ngoài chi chi đều là của Trời, thì ta đâu dám trái vặn. Ta ở trong cảnh Trời, Trời ở trong tâm ta. Ai thấy Trời Đất mà bắt chước cái thanh tịnh, thì đối với Đại Đạo không hai. Có một chút ý riêng, thì mang tội chẳng nhẹ. Hình thể có tính thiên nhiên; noi tính thiên nhiên mà hành, thì tự nhiên không bị lụy về nhân dục. Việc làm mỗi ngày có phép nhất định: giữ phép nhất định mà cử động, thì ắt khỏi lỗi bởi trái quy (trái phép tắc, quy củ).
Một động, một tịnh, cái Đạo của người chẳng có giờ nào là không cùng Trời Đất tương hợp.
Một hô, một hấp, cái khí của người chẳng có giờ nào là không cùng Trời Đất tương thông.
Thường thấy mặt trời lặn xuống đất là cái tượng trưng của tâm hỏa hạ giáng. Còn mặt trăng mọc giữa trời là cái biểu hiệu của thận thủy thượng thăng. Ngửa mặt lên xem ngôi Bắc thần (Sách Luận ngữ nói rằng: "Vi chánh dĩ đức, thí như Bắc thần cư kỳ sở như chúng tinh cũng chi". Nghĩa là: Trị dân lấy đức ví như ngôi Bắc thần ở chỗ mình (không động), mà các vì tinh tú đều chầu chực chung quanh ngôi ấy vậy. Ý nói: "Bất động nhi hóa, bất ngôn nhi tín". Nghĩa là: Ở một chỗ mà cảm hóa, không nói rằng mà thiên hạ tin. Chu tử nói rằng: Bắc thần là chỗ trung gian, không có tinh tú, mà cũng chẳng động chút nào. Bắc thần đã không tinh tú, mà người ta muốn lấy nơi đó mà làm cực điểm, thì không lẽ chẳng có cái gì để nhìn cho biết. Bởi cớ mới chọn một vì sao nhỏ ở một bên mà gọi là Cực tinh (Từ nguyên). Kỳ thật, vì sao nhỏ này cách Bắc thần, về bên hướng Bắc, một độ. Bắc thần chẳng phải là Bắc đẩu như nhiều người hiểu lầm, chính là ngôi Tử vi ở trung ương, chủ tể hết các vì tinh tú.), tuy thấy nó ở một chỗ, mà các vì tinh tú đều chầu xung quanh. Ngôi này gọi là Thiên xu, tức là then chốt của Trời.
Trời đã có then chốt, lấy đó mà làm căn bản cho Tạo hóa. Người cũng có then chốt, lấy đó làm nguồn cội cho tính mạng. Cũng thời người như nhau, mà có người gọi là đại nhân, ấy là đức mình hợp với đức của Trời Đất vậy.
Thử xét coi cái tâm ta và cái tính ta có hợp với Trời Đất là bao nhiêu. Chỗ nào hợp thì cố gắng thêm, chỗ nào không hợp thì mau sửa đổi. Như thế có lo gì không làm đến bậc đại nhân.
Trời sinh, Đất thành, là đại phụ mẫu của chúng ta. Trời động, Đất tịnh, là đại sư giáo của chúng ta. Thánh Hiền đã qua là con thảo Trời Đất, còn Thánh Hiền sẽ đến là cháu hiền của Trời Đất. Ai hay yêu cha mẹ mình, thì đức lớn sẽ đặng mạng Trời làm vua (như vua Thuấn) hoặc đặng ban Đại Đạo. Ai hay kính thầy dạy mình, là học từ bậc thấp mà lên bậc cao.
Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng:"Người không sợ Trời là vì thấy Trời ở xa. Cái điểm quan trọng của bài này, bất quá có một câu: Trời ở trong tâm ta. Con người nếu thật biết rằng Trời ở trong tâm mình, dám không sợ sao? dám không kính sao? Sợ, kính lâu rồi thì mới có thể minh tâm, có thể kiến tính, có thể thành Phật, có thể làm tổ. Chỉ lo một điều là biết rồi quên rồi đó sao.
4-NHÂN-SINH
Nhơn-sanh là giống của trời gieo Xuống thế si mê chịu phận nghèo Nghèo tánh, nghèo tâm, nghèo đạo-đức; Mau tìm Đạo-Lý thoát cơn eo.
Cơn eo đeo-đẳng chịu thân hèn Tánh tục, tâm phàm, sống đã quen Muốn biết con đường về cội phúc Tìm Thầy chỉ mối Đạo Thiêng-Liêng
Thiêng-Liêng ân độ kẻ chơn tu
Mở khóa phàm n thoát ngục tù Một kiếp “Chơn-Thân”là vĩnh kiếp Bỏ đời qua Đạo tiến êm ru.
Nhân sinh là Thái cực. Thái cực động thì sinh dương làm hỏa, hỏa là thần. Thái cực tịnh thì sinh âm làm thủy, thủy là tinh. Thần hỏa, tinh thủy hợp đúng phép thì kết lại làm căn bản cho nguyên khí, ở giữa khoảng hai trái thận.
Chúng ta trước khi sinh ra, cái khí bẩm thanh trọc là do nơi Trời phú, chứ con người không can dự việc đó. Mà khi đã sinh rồi, cái nhân phẩm tà chính do nơi người tạo ra cho mình,
chứ Trời chẳng chủ trương được nữa.
Trời Đất sinh người, hạng thượng trí vẫn ít, mà hạng hạ ngu cũng ít, duy có bậc trung nhân rất nhiều. Trung nhân hay tự cường, nghĩa là ráng hết sức mình, cùng thượng trí sẽ đồng bậc. Trung nhân mà tự khí, nghĩa là đánh liều thân mình (nhận mình là kẻ vô dụng,
không muốn làm gì) cũng hạ ngu chẳng khác chi.
Nay người ta chỉ biết mình là nhờ cha mẹ sinh ra, mà chẳng biết ta và cha mẹ ta, cùng Trời Đất, đều nhờ Đạo sinh ra. Cho nên người quân tử trước phải cầu Đạo, đặng rồi mới không hổ với Trời Đất, thẹn với cha mẹ. Tử Cống nói rằng: "Cái Đạo của vua Văn, vua Vũ chưa sa tới đất (mất biệt), còn ở nơi người" (Tử Cống viết: Văn Vũ chi đạo vị trụy ư địa, tại nhân (Luận ngữ, chương 29)). Chẳng phải nói người đời Xuân Thu mà thôi, cũng chỉ người đời nay. Chẳng phải nói người đời nay mà thôi, cũng chủ người đời sau nữa.
Nhất nhân sinh lai hữu nhất thân,
Nhất thân giai hữu nhất chân nhân.
Chân nhân linh diệu thông thiên địa,
Chân nhân thanh tịnh vô ai trần.
Chân nhân tự cổ bất tăng giảm,
Chân nhân từng lai mạc tử sinh.
Đãn năng dưỡng đắc chân nhân tựu,
Thắng như bần tử hoạch vạn cân. Nghĩa là:
Mỗi người sinh ra có một thân
Một thân đều có một chân nhân.
Chân nhân linh diệu thông Trời, Đất,
Chân nhân tịnh thanh dứt bụi trần.
Chân nhân từ trước không tăng giảm,
Chân nhân đến nay chẳng tử sinh.
Chỉ lo dưỡng được chân nhân ấy,
Hơn đứa khó nghèo gặp vàng cân.
Mạnh tử nói rằng: Chỗ con người ta khác với loài cầm thú, chỉ có một chút. Kẻ thứ dân bỏ ra, còn người quân tử giữ lấy chút ấy (Mạnh tử viết: Nhân chi sở dĩ dị ư cầm thú giả, kỉ hi; thứ dân khử chi, quân tử tồn chi. (Mạnh tử, chương 22)). Chút ấy là chân tính hoặc gọi là chân nhân như trên đó cũng được. Giữ nó thì thành Thánh, thành Hiền, bỏ nó thì làm chim, làm thú. Đương lúc bỏ nó ra, tức thì biến làm chim, thú (biến trong tâm), chẳng phải đợi chết rồi hay là đến kiếp sau.
Như nay Trời có ngũ hành, là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Chẳng ngừng gọi là hành (đi). Nếu ngừng một chút, thì hết gọi là hành nữa.
Như nay người có ngũ thường là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Chẳng biến đổi gọi là thường. Một niệm vừa biến thiên, thì hết gọi là thường nữa.
Nhưng ngũ hành, ngũ thường này đều có đủ trong mình ta, tức là ngũ tạng: tâm, can, tì, phế, thận (Trái tim, lá gan, lá lách, buồng phổi, trái cật. Tì là lá lách, chứ chẳng phải bao tử. Bao tử, tàu gọi là vị. Tì là tạng, vị là phủ. Vì tì vị cả hai đều thuộc về bộ phận tiêu hóa, nên người ta hay nói luôn tì vị). Ngũ tạng đây là gốc lớn sinh con người. Nếu phạm đến gốc lớn này thì không thể nào sống được. Cho nên thầy thuốc rành nghề trị bệnh, thì trước phải điều hòa ngũ tạng. Khi phát ra trong việc làm hằng ngày thì gọi là ngũ luân: Quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu (Vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bè bạn). Ngũ luân này là cái đạo thông dụng trong thiên hạ. Bỏ cái đạo thông dụng nói đây, thì còn gì là con người nữa. Cho nên các tiên vương dạy người, thì trước lo chỉ rõ cái lý ngũ luân. Còn người đời nay có kẻ quên thân thể, bỏ nhân luân để mà cầu Đạo. Thiệt họ chẳng biết cái quấy đó. Kẻ thế thấy vậy thất kinh lấy làm quý lạ, mà tôn sùng hạng người ấy, thì cũng là không biết cái quấy đó nữa.
Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng: "Khí bẩm có thanh trọc là do nơi Trời, nhân phẩm có tà chính là do nơi mình. Chỗ này nói ra được rất hay. Một lúc có ngừng, không thể gọi là hành. Một niệm vừa biến, không thể gọi là thường. Chỗ này nói ra được lại càng hay hơn nữa"
5-LÃO (già)
Mang thân “Tứ-Đại” trẻ rồi già Một mảnh thân gầy xương bọc da, Có tử, có sanh, bịnh khổ lão; Cuộc đời “Bất-Tử” kiếm đâu ra?
Đang lúc thanh xuân nhớ tuổi già Thiều-quang thấm-thóat lẹ đi qua Chẳng hành Đạo-Pháp mà siêu xuất; Chớ trách vô-thường bạc với ta
Kề tai nhắn nhỏ bạn tri-âm Đạo-Pháp năng tri lý diệu thâm Chẳng sợ tuổi già tu chẳng kịp; Vô-Vi thanh-tịnh đạt âm-thầm.
Người đều nói: Người tới 60 tuổi, mỗi năm thấy già thêm một chút. Người tới 70 tuổi, mỗi tháng thấy già thêm một chút. Người tới 80 tuổi, ngày ngày đều thấy già thêm. Nghĩa là:
càng lớn tuổi, càng thấy mau già.
Ta nay đã trên 80 tuổi rồi, thì còn làm gì nữa? Từ đây về sau, sống thêm được một ngày, ấy là Trời ban ơn cho một ngày, dám để cho nó luống mất sao?
Nay dẫu đắc Đạo, cũng đã trễ rồi, há dám để trễ thêm nữa sao?
Xưa kia, ba ông già bàn đến việc đời vô thường (không bền bỉ). Có một ông già nói rằng:
Kim niên tửu tịch diên tiền hội,
Bất tri lai niên hựu thiếu thùy?
Nghĩa là:
Năm nay tiệc rượu cùng ăn uống,
Chẳng biết sang năm, thiếu mặt nào?
Ông già khác lại nói: Ông nói xa vời lắm.
Kim vãn thoát hạ hài hòa miệt,
Bất tri thiên minh xiêng bất xiêng? Nghĩa là:
Tối nay giày vớ cởi ra hết,
Chẳng biết sáng ngày, xỏ lại không?
Ông thứ ba bèn nói: Ông nói cũng còn xa!
Giá khẩu khí ký nhiên xuất khứ,
Bất tri tấn lai, bất tấn lai?
Nghĩa là:
Hơi thở này đây phì khỏi miệng,
Chẳng hay trở lại hoặc đi luôn?
Người trí chẳng để mất ngày giờ, kẻ dũng chẳng để tính hai lần. Ngày nay biết Đạo, thì ngày nay phải hạ thủ. Giờ này biết được, thì giờ này tức là giờ hạ thủ. Nếu nói: Nay chưa đặng rảnh, để chờ ngày khác, thì ta e cho tới khi muốn thi hành, lại không đủ ngày giờ mà thi hành đó.
Con người có ba báu là: Tinh, khí, thần. Đến khi già rồi, thì e cho tinh khô, tinh khô ắt phải chết, e cho khí tán, khí tán ắt phải chết, e cho thần lìa, thần lìa ắt phải chết.
Tinh làm sao chẳng khô, có phải xa sắc chăng?
Khí làm sao chẳng tán, có phải ít nói chăng?
Thần làm sao chẳng lìa, có phải vô dục chăng?
Thần chẳng phải ép cầm ở lại được. Tâm tức (tâm ý và hơi thở) nương nhau, thì thần tự nhiên ở lại.
Khí chẳng khá hao tán. Chớ hay nói, giữ mực "trung", thì khí chẳng tán.
Tinh chẳng khá lọt mất. Đem tinh bổ óc, thì tinh chẳng lọt.
Có kẻ hỏi: Người già khí huyết đã suy, làm sao mà bổ nó được?
Đáp:
Cẩn thận lời nói, có thể bổ phế,
Ăn uống độ lượng, có thể bổ tì.
Tuyệt hết tư lự, có thể bổ tâm,
Trừ bỏ giận hờn, có thể bổ can.
Đoạn đức dâm dục, có thể bổ thận.
Xin chỉ thêm cho rõ!
Trả lời: Chẳng lo không bổ, duy lo bổ mà rồi lại tổn. Cho nên tôi thường nói: Một trăm ngày bổ mà chẳng thấy có dư, một mai tổn rồi thì liền nghe chẳng đủ. Mùa xuân xem cây cỏ, nhành là xum xuê. Đến cuối thu, lá rụng, sự sống về cội. Nhờ về cội mà cây chẳng chết, nên xuân tới cành lá lại nẩy sinh.
Cứ đây mà xét, thì sinh sinh chẳng cùng là Đạo của Trời vậy. Thứ nào về cội nấy là lý của mọi vật. Biết lý này mà chẳng trái với Đạo này, thì phải chỉ có bậc chân nhân không? Cho nên nói: "Chân nhân chi tức dĩ chủng" (Trang tử nói rằng: "Chân nhân chi tức dĩ chủng, chúng nhân chi tức dĩ hầu". Nghĩa là: Chư tiên thở ở tại gốc (ý nói thở sâu, tới đan điền), còn chúng sinh thì thở ở yết hầu (ý nói thở ngắn, chẳng khỏi cổ)), chữ chủng như chữ căn (cội gốc). Ba tháng mùa đông là lúc trở về cội, thì phải tịnh để dưỡng cái gốc sinh.
Bạch-Tẫn lão-nhân nói rằng:"Tâm tức nương nhau, chớ hay nói, giữ mực "trung", đem tinh bổ óc, thì ba báu bền chặt. Cẩn thận lời nói, ăn uống độ lượng, tuyệt hết tư lự, trừ bỏ giận hờn, đoạn đứt dâm dục, thì ngũ tạng đủ đầy. Ba báu đã bền chặt, ngũ tạng lại đủ đầy, có lý nào chẳng đặng diên niên ích thọ (thêm tuổi sống lâu) hay sao?