Thông Huyền lý (lý đạo Tiên) mà chẳng thông Thiền (đạo Phật), thế nào cũng mắc bịnh chấp nê. Thông Thiền lý mà chẳng thông Nho (đạo Thánh), chắc sẽ thành ra phe cuồn huệ.
Học Thiền, Nho thông rồi, mà lại mượn lý Đạo để rõ thông thêm nữa, chẳng những đời nay hiếm người, mà xưa kia trong hàng tăng nhân, đạo sĩ, trừ xứ Tử Dương, Liên Trì ra, thường không đặng mấy kẻ!
Năm Bính Ngũ, nhằm mùa hạ, một bữa kia, tình cờ tôi đến thư phòng của bạn tôi là Triệu Công, thấy trên bàn có một cuốn Dưỡng Chân tập. Hỏi ra cuốn sách này tự đâu mà có, thì mới biết rõ bạn tôi thỉnh nó tại chùa Huệ Phước, ở Hải Điền. Ông sư trong chùa này lại nhờ Trần Đề Đài trao cho. Đề Đài lại thỉnh của thầy dạy học trong nhà mình.
Tôi bèn mượn sách ấy đem về xem mới biết là của một người ẩn sĩ hiệu là Dưỡng Chân tử soạn ra. Tiếc vì trong đó không nói rõ họ tên, nhưng đoán là người trong nhóm Xích Tùng tử, Hoàng Thạch công thì chắc là không sai.
Cuốn sách này do nghiệp Nho, mà hiểu phép Thiền, lấy hư linh mà dưỡng Xá lợi; do phép Thiền mà chứng đại Đạo, mượn bát nhã để luyện Kim đơn. Bàn về bên "không", thì đều là chân truyền theo "cầm bông", "vẽ vách" ; luận đến lẽ Đạo, thì không có giá tá thuộc diên cọp, hống rồng (). Chỗ khoái vui của Khổng, Nhan , thì nhẹ tay mà vẽ bày; còn phần tân truyền của Liêm, Lạc, lại tùy
"Cầm bông" là nhắc tích đức Thế-tôn cầm bông dạy chúng tại hội Linh-Sơn. Khi ấy, ai ai cũng là thinh, chỉ có Ca-Diếp phát cười chúm chím. Thế-tôn mới nói rằng: "Ta có chánh-pháp nhãn-tàng, Niết-bàn diệu-tâm, thật tướng vô tướng, vi diệu pháp-môn, chẳng dùng văn-tự, là phép truyền riêng (chỉ truyền bằng tâm, không có ghi trong kinh luận). Nay ta đem chỉ cho Ma-ha Ca-Diếp.
"Vẽ vách" là nhắc tích Trương-Lăng-Diêu vẽ bốn con rồng trên vách tường chùa An-Lạc tại Kim-Lăng, mà không điểm nhãn (chấm con ngươi), lại nói rằng: "Điểm nhãn cho nó là nó bay đi". Ai nghe cũng cho lời nói đó là hoang-đường. Họ Trương mới điểm nhãn thử một con rồng cho biết. Bỗng chút sấm sét nổi lên đánh đổ bức tường, con rồng được điểm nhãn bèn cưỡi mây về trời, chỉ còn mấy con rồng kia ở lại đó thôi.
Người sau hay dùng chữ "vẽ vách", "cầm bông", để chỉ chỗ yếu lý.
Diên là chì, màu đen, tỉ dụ khí, như chữ cọp. Hống là chu-sa (có chỗ gọi là thủy-ngân ở trong chu-sa mà ra), màu đỏ, tỉ dụ thần, như chữ rồng).
Khổng là Khổng Tử, Nhan là Nhan Hồi 3
Tân là củi, truyền là truyền dạy. Tân truyền là nói cây củi này cháy hết thì qua cây củi khác, cho nên lửa không dứt. Thầy trò truyền cho nhau cũng thế, nên gọi là tân truyền. 1
Liêm là chỉ Châu-Đôn-Di ở Liêm-Khê, Lạc 2 là chỉ hai anh em Trình-Di, Trình-Hạo ở Lạc-Dương
1"Cầm bông" là nhắc tích đức Thế-tôn cầm bông dạy chúng tại hội Linh-Sơn. Khi ấy, ai ai cũng làm thinh, chỉ có Ca-Diếp phát cười chúm chím. Thế-tôn mới nói rằng: "Ta có chánh-pháp nhãn-tàng, Niết-bàn diệu-tâm, thật tướng vô tướng, vi diệu pháp-môn, chẳng dùng văn-tự, là phép truyền riêng (chỉ truyền bằng tâm, không có ghi trong kinh luận). Nay ta đem chỉ cho Ma-ha Ca-Diếp.
2 "Vẽ vách" là nhắc tích Trương-Lăng-Diêu vẽ bốn con rồng trên vách tường chùa An-Lạc tại Kim-Lăng, mà không điểm nhãn (chấm con ngươi), lại nói rằng: "Điểm nhãn cho nó là nó bay đi". Ai nghe cũng cho lời nói đó là hoang-đường. Họ Trương mới điểm nhãn thử một con rồng cho biết. Bỗng chút sấm sét nổi lên đánh đổ bức tường, con rồng được điểm nhãn bèn cưỡi mây về trời, chỉ còn mấy con rồng kia ở lại đó thôi.
Người sau hay dùng chữ "vẽ vách", "cầm bông", để chỉ chỗ yếu lý.
3 Diên là chì, màu đen, tỉ dụ khí, như chữ cọp. Hống là chu-sa (có chỗ gọi là thủy-ngân ở trong chu-sa mà ra), màu đỏ, tỉ dụ thần, như chữ rồng).
Khổng là Khổng Tử, Nhan là Nhan Hồi
bút màphát lộ. Hợp ba giáo đem về một mối, dẹp hết bạch mã, thanh ngưu, là điều huyễn tưởng; quy trăm nhà dẫn lại một đường, lậu tiết thiên tâm, thủy diện (3), là chỗ tinh vi. Chẳng xây lầu các ở giữa không trung, mỗi bước có nấc thang; tạo thành cầu kỳ trong nơi huyễn hải, mọi nơi vạch đường vạch lộ.
Nạp tử (người mặc áo bá nạp, là chỉ tăng lữ) mới chiều nếm vị (nếm mùi đạo đức), chẳng cần mười quyển Lăng Nghiêm; Vũ khách (khách mặc áo lông, là chỉ đạo sĩ) đi đứng noi theo, nào dụng năm ngàn Đạo Đức (cuốn Đạo Đức kinh có năm ngàn chữ). Cưỡi ngựa ra đi, viếng ít nhiều chốn mây nước ba ngàn nơi; quay đầu trở lại, mới ngồi yên trong động tiên mười hai cảnh.
Nhân thấy quyển sách báu lạ, hiếm có, tôi bèn quên hẳn sự quê dốt của mình, thêm chút ý ngu, đưa ra khắc bản, ngõ hầu sắp tới ai muốn tầm lý chân, chẳng cần tới quán Bạch Vân; mà cũng từ đây, kẻ mong tầm đạo chánh, khỏi phải vào lầu Hoàng Hạc. Mò châu lượm ngọc, toàn mong nơi mắt sáng bậc cao minh; thoát xác phi thăng, ngõ đáp tấc lòng lành người tác giả.
Ôi! Kiền khôn lớn thế này, phải có khách tri âm; còn thế giới rộng dường kia, há không người kiến tính.
Vừa chấm bút đã suốt mấy lời, ấy vô tâm mà thành bài tựa.
Hiệu Càn Long, năm Đinh Mùi, thượng nguyên, ngày hoa đăng.
Bạch Tẫn lão nhân, tên tộc là Vương Sĩ Đoan, đề tựa này ở Bồng hồ tại trần thế (chót núi Hiểu Phong
Thiên-tâm là lòng trời (ở giữa trời), thủy-diện(3) là mặt nước. Nói thiên tâm, thủy diện là dẫn tắt câu: Nguyệt đáo thiên-tâm xử, phong lại thủy-diện thì; nghĩa là: Mặt trăng ở giữa trời cao, gió thổi lai rai mặt nước. Đây là chỉ cảnh chí tịnh.
Bồng-hồ tức là Bồng-lai. Sách có giải rằng: giữa biển có ba hòn núi; một là Phương-hồ, tức là Phương-trượng; hai là Bồng-hồ, tức là Bồng-lai; ba là Dinh-hồ, tức là Dinh-châu. Vì ba hòn núi ấy hình như cái bầu, nên lấy chữ hồ là cái bầu để đặt tên.
Đây là cảnh trần, mà đặt tên là Bồng-hồ, (4) chứ chẳng phải thật cảnh tiên
Tân là củi, truyền là truyền dạy. Tân truyền là nói cây củi này cháy hết thì qua cây củi khác, cho nên lửa không dứt. Thầy trò truyền cho nhau cũng thế, nên gọi là tân truyền.
Liêm là chỉ Châu-Đôn-Di ở Liêm-Khê, Lạc là chỉ hai anh em Trình-Di, Trình-Hạo ở Lạc-Dương
Thiên-tâm là lòng trời (ở giữa trời), thủy-diện là mặt nước. Nói thiên tâm, thủy diện là dẫn tắt câu: Nguyệt đáo thiên-tâm xử, phong lại thủy-diện thì; nghĩa là: Mặt trăng ở giữa trời cao, gió thổi lai rai mặt nước. Đây là chỉ cảnh chí tịnh.
Bồng-hồ tức là Bồng-lai. Sách có giải rằng: giữa biển có ba hòn núi; một là Phương-hồ, tức là Phương-trượng; hai là Bồng-hồ, tức là Bồng-lai; ba là Dinh-hồ, tức là Dinh-châu. Vì ba hòn núi ấy hình như cái bầu, nên lấy chữ hồ là cái bầu để đặt tên.
Đây là cảnh trần, mà đặt tên là Bồng-hồ, chứ chẳng phải thật cảnh tiên